Đề bài:
“Thơ ca trong bản chất
của nó là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca, cũng còn là bão tố”
(Nhật Chiêu – Ba nghìn thế giới thơm)
Bằng trải nghiệm đọc
thơ của mình, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
BÀI LÀM
Trong Thần thoại Bắc Âu, tác giả dân gian từng nhắc đến câu chuyện “Rượu
thi ca”, đó là một loại rượu được tạo ra bởi những người khổng lồ và khiến cho
các vị thần phải bằng mọi giá có được. Và thi ca, ra đời từ đó, theo quan niệm
của người Bắc Âu, mọi bài thơ được ra bởi những người thi sĩ uống được một giọt
rượu thi ca trên con đường tranh giành giữa Thor và những
người khổng lồ để xem ai sẽ có được thức rượu tuyệt phẩm ấy. Phải chăng do nguồn
gốc đầy độc đáo ấy, bởi những câu thần chú và phép thuật, thơ ca cũng tiềm tàng
sức mạnh kì diệu? Mà như Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu từng viết trong “Ba nghìn thế
giới thơm” vậy: “Thơ ca trong bản chất của nó, là mây. Một hình thể vô định và
huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố”.
Lời trích dẫn trong tác phẩm
nổi
tiếng của nhà văn Nhật Chiêu cũng đồng thời thể hiện quan niệm
của ông về thơ ca. Thơ ca lúc nào cũng nhẹ nhàng, bay bổng , lững lờ trôi giữa dòng đời vô tận. Nó ở ngay trong cuộc đời này nhưng
cũng thật xa xôi như ở chốn tận cùng thế giới. Thơ ca là một hữu thể vô định mà
huyền ảo, nó luôn vận động, luôn luôn đổi dời. Thơ ca mở ra một thế giới kì ảo,
một chân trời lạ lẫm, nơi mà đời thực và những giấc mơ trộn lẫn vào với nhau,
nơi mà mọi ranh giới hư thực bị xoá nhoà. Và trong cái nhẹ nhàng thoang thoảng
thi vị ấy, thơ ca mang trong nó một sức mạnh tiềm tàng, có thể dữ dội như những
cơn bão tố. Tất cả những điều đó tạo nên thi ca, rực rỡ và chói loà như một ánh
ban mai vàng rực.
Giáo sư Đỗ Lai Thuý từng viết:
“Thơ ca là một câu trúc ngôn từ phức tạp, nó bắt ta phải nhớ, phải cảm xúc, phải
suy nghĩ bằng chính ngôn ngữ của nó”. Thơ ca được ví như một ma trận ngôn từ mà
mỗi người thi sĩ là một nghệ nhân chơi chữ điêu luyện. Ngôn từ trong thi ca đeo
trên nó hàng trăm nghìn những chiếc mặt nạ, vừa là nó vừa chẳng phải là nó. Mỗi
một bài thơ là một hệ kí hiệu buộc người đọc phải giải mãi thật tỉ mỉ bằng lòng
nhiệt thành và trái tim biết rung cảm. Ngôn từ thi ca để làm được điều này cần
phải có sức gọi, cả về hình ảnh của sắc, âm thanh của vần điệu nhưng hơn cả, là
gợi lên những tình ý đậm đà. Ngôn từ thi ca như tạo ra giữa chúng những khoảng
không thinh lặng mà tại đó hồn thơ chan chứa, dạt dào và tràn đầy. Nhưng như vậy
chưa đủ lý do để thơ ca được ví như mây trời. Thơ ca muốn lửng lờ trôi vào hồn
người cần được cấu thành từ những ngôn từ nhẹ nhàng, êm dịu. Nó phải tạo thành
một làn sóng rung cảm lắng lọc trong tim độc giả thay vì những tạp ngôn xô bồ.
Và thi ca, huyền bí đầy bất định chính nhờ tất thảy những những điều đó, nhờ
cái ngôn từ đa nghĩ tạo thành các câu mơ hồ như những màn sướng sớm không ngừng
thu hút lòng người muốn khám phá, muốn thấu hiểu nó ở tầng sâu nhất.
Mặt khác, thơ ca còn là
thành phẩm của quá trình đồng sáng tạo của nhà thơ và bạn đọc. Thơ sẽ chỉ la những
lời bộc bạch như một quyển nhật ký bí mật của những nhà văn nếu người đọc bỏ
qua nó, khước từ nó và không hoà vào trong hồn điệu vọng vang của nó. Vì lẽ này
nên thơ ca mới vô định, nó phụ thuộc vào năng lực cảm thụ và góc độ tiếp nhận của
các độc giả.Thơ ca, như những dòng đối thoại không hồi kết của người đọc và nhà
văn về văn chương, thơ phú, là quá trình cả hai trăn trở về nhau để hiểu đối
phương và rồi tìm thấy chính mình. Và hiển nhiên nhận thức và quan điểm sống của
mỗi đối tượng là khác nhau nên hiệu quả đọc cũng như ý nghĩa tìm được cho chính
mình cũng không thể giống như nhau.
Ví như trong “Nguyệt cầm”,
Xuân Diệu đã mở ra hàng loạt cách suy luận ngay từ trong nhan đề bài thơ. Nguyệt
cầm? Là đàn nguyệt hay trăng đàn? Là nghe đàn trong đêm trăng hay đàn dưới ánh
trăng? Đâu mới là ý nghĩa thật sự của hai tiếng nguyệt-cầm? Hay tất cả những
câu hỏi đó đều chẳng có đáp án hay một lời giải đáp nào cả. Đó chính là sự lặng
lẽ của ngôn từ, lặng lẽ đầy gợi mở, là một tấm màn kì bí bao trùm lên bài thơ
mượt mà dệt bởi những ngôn từ cô đúc, sống động.
Ngôn từ thi ca vốn dĩ đã đa
dạng, độc đáo nhưng cùng với sự kết hợp đầy tinh tế cùng nhau, chúng quyện hoà
để xoá nhoàn đi những lằn ranh ngữ nghĩa cứng nhắc để tác phẩm trở thành những
câu đố không bao giờ có thể bị phá giải, tuy mơ hồ nhưng cũng thú vị hơn bao giờ
cả, ví như Xuân Diệu viết:
“Trăng nhập vào dây
cung nguyệt lạnh”
Tại đây, bằng một từ “nhập”, tác giả đã xoá nhoà đi ranh giới của “trăng”
và “nguyệt”, gộp cả hai thành một, hữu hình hoá cả hai vật thể vô định lại ngay
trước tầm mắt: “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Xuân Diệu đi xiếc trên việc sắp
đặt từ ngữ, khải niệm trăng đàn lẫn lộn hoàn toàn với nhau, bởi lẽ trăn là nguyệt
mà nguyệt cũng lại là càm, ánh sáng và âm thành bện chặt lấy nhau là linh hồn
trụ đỡ cho sự thăng hoa xuyên suốt bài thơ. Đồng thơi, nhà thơ sử dụng từ
“cung” đầy ẩn ý. Cung? Là cung trăng hay cung đàn? Thế thì trăng nhập vào đàn
hay đàn hoà vào trăng? Ta chỉ biết rằng cả hai giờ đây đã là một không còn ranh
giới gì, tuy mơ hồ nhưng tràn trề sức hút. Ngôn từ đã gợi lên hàng loạt cách nghĩ
khác nhau về bài thơ, nó khiến cho bài thơ không bao giờ dừng sống động. Các
làn nghĩa giao thoa trong sự hài hoà đến tuyệt đối. Chính điều này khiến cho
bài thơ không bao giờ ngừng lan toả một làn sóng trùng điệp những thanh sắc vào
trái tim độc giả. Và rồi, như một áng mây giữa nền trời bao la, cứ trôi, trôi
mãi không nghỉ dừng,…
Thơ ca, xem mơ hồ như bản chất
của mình bởi lẽ nó được bật ra từ những cơn mơ tình của người thi sĩ, từ hai bờ
của nhận thức và tiềm thực, của hiện tại và những giấc mộng. Khi người nghệ
nhân ngôn từ lặng lẽ chìm vào cái ưu tư của riêng mình, khi đối diện với con
tim mình, nhà thơ xây dựng trong đó một thế giới chủ quan riêng, dựng lên bởi
ngôn từ mà nền tàng là sự bộc phát và chiếm lĩnh những thứ trong bản năng lẫn
cái tôi chìm ngủ. Đó là những mảng khuất và tầng sâu thẳm nhất trong tâm hồn để
rồi bật lên từ đó, từng tiếng thơ vang vọng. Thơ ca, trong cái tâm thức của người
thi sĩ, nó phát khởi, nó vẫy vùng để được bung ra thành những âm thanh mạnh mẽ
dội vào lòng người đọc. Và khi đó, nó mang lấy nhữg trăn trở, những khao khát
không cách nào nguôi ngoai của nhà thơ. Để rồi, họ đi lại vào trong sáng tác của
mình và tìm lại chính bản thân đầy nguyên sơ nhưng cũng thần bí và xa lạ. Giống
một Huy Cận:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
Ẩn đằng sau một Huy Cận năm nào lại là một linh hồn khác, một linh hồn đầy
bơ vơ. Giữa cái đất trời thênh thang và dòng đời vô tận, đời người tuy ngắn ngủi,
linh hồn tuy mong manh, đơn chiếc nhưng lại gánh hết nỗi buồn dai dẳng đến ngàn
năm. Cái buồn như choán ngợp, như nuốt chửng lấy hồn người giữa vũ trụ bao la. Ở
đây, ngay trong sáng tác của mình, Huy Cận đã bộc lộ một cái tôi xa lạ hẳn đi,
đã thể hiện một nỗi lòng tiềm ẩn, chính điều đó khiến cho bài thơ như đưa con
người vào cõi mộng, nơi mọi chiếc mặt nạ tháo xuống và cái tôi dần lộ diện, tuy
kì bí, xa lạ nhưng cũng đơn côi, đáng thương đến lạ lùng.
Trong “Lược khảo Văn học”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung có viết: “Trước một thế
giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ để tái tạo
lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”. Thơ ca,
chính vì lẽ đó, tạo nên từ những mảnh vỡ, từ cuộc đời với những tụng ca, bi ca,
với thăng trầm của nỗi thống khổ và hạnh phúc vô bờ. Bởi thế, chính những bờ vực
đầy chênh vênh của xúc cảm ấy, thơ ca mang lấy sự vang dội của những cơn bão tố
không ngừng lay động, không ngừng xô đẩy vào lòng người đầy chơi vơi. Còn nhớ,
có một Hàn Mặc Tử, đảo điên đầy thống khổ trong niềm đau cùng tận khi đối diện
với “Một hồn đau rã lần theo hương khói”. Để rồi, đứng giữa bóng tối mịt mù của
vô vọng cùng một trái tim chưa bao giờ ngừng sống và thèm sống, Hàn Mặc Tử đã để
lại một cơn bão tố mang tên thơ ca kết đọng lại bằng những máu, những lệ và chiếc
linh hồn cô tủi chưa bao giờ ngừng réo rắt, ngừng dữ dội:
“Mỗi khối tình nức nở
giữa âm u
Mỗi hồn đau rã lần
theo hương khói
Một bài thơ cháy tan
trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp
giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ cả
một vùng
Hoá thành vũng máu
đào trong ác lặn”
Từng chút một, những vụn vỡ, tan biến hiện dần lên trong thơ Hàn cùng những
thanh trắc không ngừng tiếp nối nhau như một tiếng thét toáng đầy bất lực, đầy
thương đau giữa bốn bề thống khổ. Hàn Mặc Tử đã viết về nỗi cô đơn tận cùng và
dai dẳng bám lấy mình theo cách ấy. Nhưng hơn cả, đó là nỗi mặc cảm chia lìa và
mất mát đầy ám ánh. Cơn bão tố mà vần thơ ông gieo vào lòng người không chỉ là
những rùng rợn của chao đảo trong thực hư mơ tỉnh mà còn là sự hãi hùng vì những
vụn vỡ chia phôi. Đó là sự rạn nứt của thương yêu, là sự tàn lụi của thể xác
hoà với linh hồn đầy bất lực, đó là sự huỷ diệt của tạo hoá đầy quyền uy, là một
chút níu giữ, một chút quẫy đạp ngoi ngóp trong niềm đau, trong nỗi tuyệt vọng
từng bước xâm lấn. Để rồi, có còn lại gì đâu, từng thương yêu, từng trìu mến cứ
thế mà lặng lại, bị dìm chết ở đó trong máu của ta, của người và của đời, trong
cái buồn thương, khổ đau không cách nào ngừng đeo đuổi hồn người, lòng người. Cơn
bão lòng chưa hề dịu đi của Hàn phả vào hồn thơ như một sự bùng nổ hoàn toàn khỏi
những giới hạn, những kiềm toả để rồi nó thổi bùng lên ngọn lửa đê mê trong tâm
thức sáng tạo của nhà thơ. Sự mê cuồng ấy, cơn bão giông của sự sâu sắc ngữ
nghĩa mà thơ ca mang đến đó lại một lần lan toả, một lần len lỏi để khơi lên sự
cảm thông đầy chua xót trong lòng độc giả. Và bão tố của thơ ca trong thơ Hàn với
những bi thương, đau đớn và đơn côi ấy mãi mãi bất diệt, mãi mãi là tiếng nói
giao thoa giữa những linh hồn trong cõi đời quạnh quẽ.
Bão tố trong thơ ca không có sấm chớp đì đùng nhưng nó có những tiếng thơ
trào dâng. Từng làn sóng ngôn từ trùng điệp xô vào lòng ta khiến ta bồi hồi, thổn
thức. Nó lam ta lay động và xuyến xao, khiến lòng ta không nguôi mà gợn nhẹ nỗi
cồn cào, lăn tăn, Đó là cái tình trong thơ, cái cội nguồn cho mọi lời tha thiết.
Một lần nữa, Đỗ Lai Thuý viết: “Thơ ca đứng trên cái chênh vênh của đời thực.
Đó là cái đẹp của nó, là bi kịch của nó và là vận may kì diệu của nó”. Quả thật
vậy, trên bờ vực của lòng người chênh vênh, thơ ca xuất hiện thu gọn tất cả vào
trong tầm mắt. Thơ ca viết về những lần chao đảo của linh hồn, nó tìm ra trong
đó cái đẹp bản thể. Nó mang mác cái buồn của thời cuộc, nó nghẹn ngào nỗi đơn
côi của vận mệnh. Nhưng lại càng vì thế mà nó càng may mắn: nó đã nhìn thấy, đã
nắm bắt và thấu hiểu được lòng người heo hút. Nên cũng từ đây, thơ ca bộc bạch
những lời thủ thỉ với lòng người khiến ai nấy “rùng mình” vì nỗi lòng đột nhiên
trào dâng, vì tiếng lòng tựa như ứa ra trong từng nhịp thơ, vần thơ. Những thi
vị, những ý nghĩa sâu sắc của những bài thơ bởi thế mới như là bão tố, nó đánh
mạnh vào lòng người, tạo ra sợi dây gắn kết mang tên cảm thông. Những âm thanh,
những hình ảnh thơ cũng dần hiện lên ngay trước mắt, không ngừng liên tục khiến
cho người ta xuyến xao cả một vùng tâm thức.
Thơ ca là như thế, vừa êm ả như mây, vừa kỳ lạ, huyền ảo như những cơn bão
ào ạt xô vào lòng người. Bởi thế, để đọc được thơ ca, ta cũng hãy như người thi
sĩ kia, thành một kẻ điên, kẻ say, kẻ mơ. Ta hãy qua hết cuộc đời thường nhật để
lắng nghe thanh âm sâu thẳm nhất của thơ ca. Ta hãy nhìn nhìn bằng đôi mắt
trong veo của kẻ say chẳng màn thế sự để chìm mình trong vị rượu thi ca và tắm
mướt lòng mình trong những dòng thơ dịu dàng êm ả.
Thế giới của thi ca, như một vùng trời của những điều hồ mơ, bí ẩn. Ý tứ của
thơ ca lại chẳng vì thế mà rủng roẻng, sáo rỗng và vô hồn. Và thơ ca chính vì
thế nên mới là một sự tồn tại bất tử, nơi cứu rỗi bao kiếp người đi qua cuộc đời
bão giông.
NGUYỄN ĐỨC LAM THẢO
LỚP 11 CHUYÊN VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH ĐHSP
NĂM HỌC 2018-2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét