Đề
bài: Thi pháp trung đại qua ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Như dòng sông chở nặng phù sa đời đời bồi đắp
cho đất đai màu mỡ, như dòng sữa ngọt lành chất chứa những tinh hoa, dòng đời của
văn học cứ miên viễn mãi không ngừng. Mỗi thời đại đi qua, văn học lại khoác lên
màu áo mới nhưng chiếc áo cũ vẫn lưu dấu những nét đẹp một thời tựa như hồn thiêng
của cha ông. “Thời đại nào, văn học ấy”. Chẳng ai trong chúng ta quên đi một thời
văn học trung đại đượm đầy những tinh túy, cao đẹp.
Nhắc đến một nền văn học trước tiên là đề
cập đến thi pháp của nền văn học ấy. “Thi pháp” được hiểu là phép tắc làm thơ. “Thi
pháp trung đại” là thuật ngữ chỉ lĩnh vực nghiên cứu văn học với tư cách là một
nghệ thuật, nghiên cứu cấu tạo của tác phẩm văn học và tác giả của một thời kì
từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Nó nêu ra rạch ròi những nguyên tắc mà bất kì người
nghệ sĩ nào trong thời đại đó cũng phải tuân theo. Văn học trung đại có tính ước
lệ, cao quý và thanh nhã. Trong tính ước lệ lại bao gồm tính uyên bác, sùng cổ
và tính phi ngã. Mỗi đặc tính như một phần của cây cổ thụ - thiếu đi sẽ mất đi
vẻ cổ kính, uyên thâm của một nền văn học. Tất cả những đặc điểm được tổng hòa để
cùng được chạm trổ lên những bức tượng đài vĩ đại – những tác phẩm kinh điển
ghi dấu tinh hoa một thời tưởng như đã qua nhưng mãi vàng son trong đời sống văn
học; ghi dấu tài hoa, ý chí của người nghệ sĩ với cuộc đời.
Đặc điểm của một nền văn học phản ánh nhu
cầu thẩm mỹ, quan niệm về cuộc sống của những giai cấp làm chủ trong xã hội. Văn
học trung đại mang tính uyên bác vì đối tượng sáng tác và đối tượng thưởng thức
đều là những người có vốn học vấn uyên thâm “làu thông Đông Tây kim cổ”. Thi thánh
Đỗ Phủ từng nói: “Năm mươi sáu chữ trong một bài thờ Đường luật phải là những ông
thánh hiền tuyện nhiên không lọt một chú buôn thịt”. Chính vì thế mà thể loại
thơ quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt: Đề - Thực – Luận – Kết rõ ràng và cách
gieo vần, ngắt nhịp cũng phải nhịp nhàng, đúng theo khuôn khổ. Chùm thơ thu của
Nguyễn Khuyến được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi
bài là một phác thảo với nét bút hội họa phương Đông, không rườm rà, sặc sỡ mà
cũng không gò bó, khuôn sáo. Nhà thơ – họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một
vùng quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỉ XIX vào độ thu sang. “Thu
vịnh” là những đường nét phác họa khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa thu. “Thu
điếu” dừng lại ở không gian và thời gian cụ thể đó là trên một ao thu, vào một
chiều thu có ngư ông trên thuyền hả mồi đợi cá. Sang đến “Thu ẩm” là sự quan sát
cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ nhất.
Thiên nhiên trong thơ trung đại được ví như
người tình không thể thiếu trong cuộc yêu đương. Sơn thủy hữu tình là đề tài ưa
chuộng của nghệ thuật phương Đông, nó như một bức tranh thủy mặc với những đường
nét thanh cao, màu sắc thanh đạm, hướng đến những điều thanh sạch trong đời thường.
Cảnh thu trong “Thu vịnh” đã được cụ Tam Nguyên phác họa như thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là
thơ tả cảnh. Biên độ không gian và thời gian không hạn chế: một buổi sáng, một
cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu mùa thu. Ta bắt gặp trời (câu 1, câu 2), nước
(câu 3), hoa (câu 5) có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút nhưng
điệu thơ, hồn hơ thì đã vượt khỏi khuôn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý… của nét
bút thơ và họa cổ điển. Nét thu quán xuyến tất cả là bầu trời thu không ủ dột,
quẩn quanh tù túng mà cao vời vợi, cao ngất mấy tầng, cao hút tầm mắt:
“Trời
thu xanh ngắt mấy tầng cao”
Chỉ một nét điểm xuyết, phác họa cùng một
cây cọ màu xanh mà vẫn thấy được tầng tầng lớp lớp màu xanh da trời. Tầng tầng
lớp lớp mà vẫn chan hòa với nhau để tạo thành vòm trời vừa cao rộng, vừa sâu lắng.
Sang đến “Thu điếu”, cảnh vật cũng được
phác họa bởi trời thu:
“Tầng mây lơ lửng
trời xanh ngắt”
Màu xanh gợi nhắc lại như cái điệp khúc của
bầu trời một độ vào thu, “tầng mây lơ lừng trời xanh ngắt” là màu xanh phân vân
trước cái cao rộng của bầu trời dường như những áng mấy thưa thớt quá nên chẳng
thể phủ kín bầu trời xanh ngắt thênh thang.
Bầu trời được phân làm hai lớp: phần trên là màu xanh rộng rãi bao la,
phần dưới lãng đãng màu mây trắng. Cả hai màu sắc hợp hòa bên nhau, làm nổi bật
lên nhau tạo nên những đường nét thật trong sáng. Chính cái màu xanh ngắt – một
màu xanh, rất xanh – có tác dụng nâng bầu trời lên cao hơn, rộng hơn, lại hiện
diện một lần nữa trong bài “Thu ẩm”:
“Da trời ai nhuộm
mà xanh ngắt”
Da trời không ai nhuộm mà xanh. Đúng là trời
thu Việt Nam – nhất là ở vùng Bắc Bộ bao giờ cũng đẹp đẽ trong sáng như viên ngọc
giữa lòng đại dương. Màu trời ấy lồng ánh qua tâm hồn rất hữu tình của Nguyễn
Khuyến càng xanh biếc, càng đẹp như sắc ngọc lưu ly xuyên suốt ba bài thơ thu.
Giữa trời thu bao la như nới rộng cả không
gian ấy, một khóm tre xa xa từ thôn vắng lả ngọn theo gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển
càng tô thêm sắc thu:
“Cần trúc lơ phơ
gió hắt hiu”
Cái vẻ “lơ phơ” của trúc còn gợi lên nét gì
rất tỉ mỉ như những nét bút lồng của họa sĩ. Trúc được xem như là một trong tứ bình
của loài hoa “tùng – trúc – cúc – mai”, bởi nét thanh tao, mảnh khảnh của nó. “Gió
hắt hiu” gợi đúng cái gió heo may se lạnh của miền Bắc. Giữa trúc và gió hình
như có sự chan hòa, thấm quyện vào nhau. Cành trúc còn gợi cái hồn vìa của làng
cảnh Việt Nam tự ngàn đời:
“Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo”
Trên là trời xanh bát ngát, dưới là ngõ trúc
trầm mặc quạnh quẽ, hai chữ ‘quanh co” như một nét vẽ linh hoạt tạo nên một đường
uốn lượn chuyển động, đồng thời cũng gợi cảm giác heo hút cô đơn. Thơ trung đại
thường “tả cảnh ngụ tình”, đem cái buồn trong lòng người mà trút ra thành thơ. “Khách
vắng teo” – càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch tột cùng của cảnh: không một bóng
người, không một tiếng động. Cảnh vật như lặng thinh, thời gian như ngưng đọng
nhường chỗ cho một ý thu mênh mông bát ngát.
Đối xứng với trời thu là ao thu vào sáng
tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài,
thời điểm “long lanh đáy nước in trời”; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng tạc
nên ảo ảnh màn khói mênh mông mà các nhà thơ cổ điển thường gọi là “yên ba
giang thượng”. Trời thu và nước thu: “Nước biếc trông như tầng khói phủ” hay “Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí” tựu chung đều là những vẻ đẹp mơ hồ, rất khẽ khàng của
cảnh sắc mùa thu. Nước thu vẫn “trong veo” nhưng màu trong xanh bây giờ dường
như đã trộn lẫn với màu nhàn nhạt của sương chiều. Màu chiều xuống thấp đọng trên
làn sương nhẹ bay là trên mặt nước tạo nên cảm giác kì lạ khó phân biệt được
ranh giới giữa làn nước xanh và màu sương nhạt.
Sau thu thiên, thu thủy là thu nguyệt. Trăng
thu sáng dịu dàng trong trẻ tuyệt trần xưa nay vốn là bạn của thi nhân. Trăng là
kẻ đồng hành: “Chè trên, nước ghín, nguyệt đeo về” (Nguyễn Trãi), “Một trong một
bóng một người hóa ba” (Nguyễn Huy Tự). Nguyễn Khuyến không cài song để đón trăng
và ngắm trăng, chẳng biết trăng ở đây có vào đòi thơ Tam Nguyên Yên Đổ hay không
mà sao thơ mộng đến thế:
“Song thưa để mặc ánh
trăng vào”
Có một sự chuyển động rất khẽ khàng của thời
gian và bóng trăng bước vào thơ như một người tri kỉ. “Song thưa” - một khung cửa mở rộng thênh thang. Thời gian
bước nhẹ từng bước làm không gian cũng chuyển mình, cảnh vật như mờ dần và tựa
hồ như “bóng trăng loe” in hằn trên “làn ao lóng lánh”, ánh trăng chậm rãi bước
vào song cửa, người và trăng như ùa vào nhau, chan hòa lẫn nhau. Cảnh vật im ắng
chứa một chiều sâu vừa tĩnh mịch, vừa khoáng đạt bao la lạ thường.
Bây giờ lại đến hoa thu:
“Mấy chùm trước giậu
hoa năm ngoái”
Phải chăng vì người xưa quan niệm thời
gian tuần hoàn “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại” nên thời gian trong thơ Nguyễn
Khuyến chầm chậm êm trôi thậm chí dừng lại trong suy tưởng. Dưới bóng trăng “mấy
chùm trước giậu” bước vào cảnh vật như một nỗi gợi nhớ, nhắc nhở; tác giả nhắc đến
hoa nhưng không phải để tả cảnh nên hoa không có màu sắc, hoa chỉ làm minh chứng
cho sự tuần hoàn của năm tháng và hoa chỉ thấm đượm màu sắc của thời gian. Giữa
thực và hư không có ranh giới nên chùm hoa trước giậu bỗng mang bóng dáng của “chùm
hoa năm ngoái…”. Bóng trăng không chỉ soi tỏa con nước mà còn phủ thứ ánh sáng
bàng bạc trên những giậu hoa gợi nên những màn “khói nhạt” giăng mắc giữa không
trung. Cảnh vật càng hữu tình tựa như bức tranh thủy mặc được chấm phá bởi một
tâm hồn tự tại, ung dung đằm mình trong thiên nhiên. Nguyễn Khuyến – nhà thơ của
làng cảnh Việt Nam đã đem cả non sông nước biếc với bao nhiêu phong cảnh hữu tình
vào thơ như một kho tàng quý báu. Như người nghệ sĩ chấm phá bức tranh bằng cây
cọ trăng đen truyền thống, thi pháp trung đại được Tam Nguyên Yên Đổ sử dụng như
một cây cọ thần phủ lên cảnh vật màu sắc tươi tắn, sinh động, mà cũng rất đỗi nhẹ nhàng, nên thơ.
Văn học trung đại cũng mang đậm sự cao quý
và thanh nhã như cốt cách con người thuở xưa. Xã hội phong kiến là xã hội với
nhiều lễ nghi chính vì thế mà văn chương có mục đích quan trọng là giáo hóa, người
sáng tác nghiêm trang, dù viết ra để chơi vui, thù ứng thông thường cũng không
thể nói càn, mà gần hay xa đều nhắm đến xúc cảm, suy nghĩ của mình, ngày xưa
cho đó là cái chí, cái tình, cái tam của người làm thơ. Cái tâm ấy hương theo một
cái đạo nhất định. Trong thơ cụ Nguyễn, cái “đạo” ấy là nỗi niềm yêu nước khôn
nguôi của người sống trên quê hương nhưng lại thiếu vắng quê hương:
“Một tiếng trên không
ngỗng nước nào”
Câu thơ 5 – 6 trong bài “Thu vịnh” này cùng
một mạch liên tưởng với nhau: chùm hoa xưa gợi nhớ nỗi niềm nước nhà; tiếng
chim kêu càng làm tâm trạng u hoài, sầu cổ. Giữa bầu trời cao rộng, im ắng chợt
vang lên một tiếng kêu thê thảm của một con ngỗng lạc bầy. Trong khoảnh khắc, âm thanh dường như xé cả không
gian rồi chìm đắm, mất hút… Cảnh lại càng cô tịch như vết kéo dài của tiếng trống
canh hằn lên trong tâm hồn nhà thơ. Ngỗng trời là loại di điểu bay xa, mỗi cuối
mùa thu, tời sắp lập đông, chim phải rời miền Bắc đề xuôi về miền Nam trốn rét.
“Ngỗng nước nào” gợi lên cảm giác man mác, quạnh quẽ trong tâm hồn thi nhân. Hỏi
“Ngỗng nước nào?” phải chăng nhà thơ thấy mình như cánh chim lạc bầy, như vùng
trời này không còn là của đất nước mình nữa. Nhớ chùm hoa năm ngoái và đau xót
khi nhìn lại đất nước của mình hôn nay. Tả cảnh thù mà lòng người cũng mênh mang,
chan chứa tình người, ắp đầy những tâm sự. Tâm sự dù chẳng buông một lời nhưng
người ta nghe có tiếng thở dài của người quá tuổi tìm đến rượu như thứ men tráng
lấp những nỗi niềm:
“Rượu tiếng rằng
hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã
say nhè”
Câu thơ trước đọng lại trong mạch thơ như
giọt lệ lưng tròng “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” – giọt lệ như sương của tuổi
già rơm rớm như một nỗi đau âm ỉ. Một bầu trời tâm sự nước non chỉ còn cách mượn
rượu để giải sầu. Uống rượu tiêu sầu mà sầu có đứt, ở ẩn tìm quên mà nỗi nước
nhà có lúc nào nguôi? Càng uống thi nhân càng “say nhè”. Thế là một mình nhà thơ
đối diện với bầu rượu trong đêm thu. Sau “năm ba chén”, tâm tư đã nhòa ra, thẩm
thấu vào cảnh vật khiến cho sắc thu, dáng thu, hồn thu đều cùng lảo đảo trong cơn
say. Người đã “khấp khểnh ba chân dở tỉnh dở say” thế mà nỗi buồn vận nước vẫn
bứt rứt mãi trong lòng.
Cụ Tam Nguyên từng mượn rượu để giải khuây,
bây giờ lại mượn thú câu cá cho vơi bớt nỗi niềm mất nước:
“Tựa gối buông cần
lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới
chân bèo”
Cả bài thơ “Thu điếu” là một nốt nhạc trầm
lặng chỉ duy nhất một thanh cao chen ngang giữa bản nhạc êm ắng nơi cuối bài.
Nhà thơ dường như đang giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Từ “cá
đâu” là cách hỏi vừa tạo sự mơ hồ trong không gian vừa gợi sự ngỡ ngàng của lòng
người. Nhà thơ dường như mất cảm giác về không gian thực tại mà chìm đắm trong
không gian suy tưởng. Câu cá chẳng phải để bắt cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm
việc đời thời, đợi người hay để câu nhàn, “lánh đục về trong”. Trong văn thơ
truyền thống, người xưa lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá
là việc “câu người”, “câu quạnh”, “câu lười”. Nhà thơ Nguyễn Khuyến lấy cớ đau
mắt bỏ quan về làng năm 49 tuổi và không muốn hợp tác với triều đình bất lực bán
nước. Bài thơ “Thu điếu” không chỉ chất chứa nỗi buồn thế sự của một tấm lòng yêu
nước mà còn thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một thi nhân
có phẩm chất thanh cao.
Thi pháp trung đại còn mang tính chất sùng
cổ, nghĩa là đề cao cái cổ, cái xưa. THời tốt đẹp nhất phải là thời Nghiêu, Thuấn;
quá khứ bao giờ cũng là mẫu mực cho văn chương, cho con người soi vào. Người ta
quan niệm “xưa sao nay vậy”, “không ai mặc áo qua khỏi đầu”. Con người phải tự
hạ mình đến mức tối đa, xem mình là tài hèn sức mọn. Chẳng vì thế mà ta thấy Phạm
Ngũ Lão đã từng khiêm nhường: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” – thể hiện một
chữ “thẹn” đầy thanh cao.
Nguyễn Khuyến cũng vậy:
“Nhân hứng cũng vừa
toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với
ông Đào”
Nếu chúng ta hiểu thái độ của Nguyễn Khuyến
trong tư cách là kẻ sĩ, trước quyết định xuất -xử đầy tỉnh táo, dứt khoát của Đào
Tiềm, thì ta không những sẽ hiểu mà càng trân trọng và kính ngưỡng nỗi hổ thẹn đáng
quý của ông. Một con người đâu chỉ vẹn trọn một lòng yêu nước mà còn thanh sạch,
đầy nhân phẩm, cốt cách cao đẹp. Nguyễn Khuyến là một trong những cây cổ thụ của
văn học dân tộc. Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt
bao thế kỉ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nhưng gốc rễ của nó ăn sâu vào đất Việt,
góp phần tạo nên tâm hồn Việt bởi thơ ông vẹn đầy những đường nét thi pháp của
một thời và con người ông mang tầm vóc của con người thời đại bởi cốt cách
thanh cao, trong sạch!
Thành thơ văn để đời, vượt qua sự đào thải
khắc nghiệt của thời gian, người nghệ sĩ cần phải có cái tài, cái trải nghiệm, cái
cảm sâu sắc; phải hội tụ hùng tâm tráng chí của thời đại để làm nên những tác
phẩm bất hủ. Có được như vậy, văn chương mới bất tử cùng thời gian. Thi pháp
trung đại dẫn cho người đọc đương thời và thế hệ sau con đường đi đến cách cảm,
cách nghĩ, những đường nét văn hóa và đặc biệt là chạm vào hồn cốt con người một
thời. Đi sâu vào các đặc điểm tính uyên bác, tính ước lệ, tính sùng cổ, tính
phi ngã, ta càng thấy một bầu trời văn chương như nới rộng ra bởi cảm quan của
người xưa trước thiên nhiên, ta thấy được tầm vóc con người cũng như nhân cách,
khí tiết và nỗi lòng miên man của tiền nhân ẩn sau từng con chữ. Dòng văn học trung đại chẳng những làm nền tàng
cho văn học dân tộc mà còn làm giàu thêm tinh thần nhân bản, tình yêu nước và có
tác dụng như tiếng nói mở đầu cho văn học viết của dân tộc!
BÙI LÊ ANH THƯ
LỚP 12 CHUYÊN VĂN
TRƯỜNG THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét