Đề bài: “Truyện ngắn là cách cưa lấy
một khúc đời sống” (Tô Hoài)
Bằng hiểu biết về một truyện ngắn
Việt Nam hiện đại, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
Bài
làm
Khi gấp lại một truyện ngắn hay, người đọc
không sao ý giải được những nỗi niềm sâu kín man mác, những cảm xúc bâng khuâng
xao xác khắp tâm hồn mà thiên truyện ấy mang lại. Và điều càng không thể lý giải
hơn nữa, là bằng cách nào mà chỉ vài trang truyện, mà truyện ngắn có thể truyền
tải những cảm xúc mãnh liệt, ồ ạt cuộn trào như thác lũ! Là trái tim người đọc đa
cảm, hay bản thân truyện ngắn có một phép màu? Phép màu ấy là bởi “Truyện ngắn
là cách cưa lấy một khúc đời sống” (Tô Hoài).
Lời nhận định của nhà văn Tô Hoài là một cách
định nghĩa truyện ngắn trên phương diện đặc trưng thể loại. Nhưng thật ra, truyện
ngắn là gì? Truyện ngắn là một thể loại văn xuôi nằm trong phương thức tự sự. Đúng
như tên gọi, tất nhiên truyện ngắn phải ngắn, và có truyện. Chính vì vậy, truyện
ngắn là “cách cưa lấy một khúc của đời sống”. Cách nói hình tượng của Tô Hoài đã
định nghĩa truyện ngắn một cách khá độc đáo! Nếu xem đời sống, hiện thực cuộc sống
là một cái gì đó hữu hình cụ thể, như một cái cây chẳng hạn, thì chặt khúc cái
cây – đời sống ấy ra, ta có truyện ngắn. Vậy khúc cây – truyện ngắn ấy sẽ như
thế nào? Tất nhiên là ngắn gọn, bé nhỏ hơn rất nhiều so với đời sống. Tuy chỉ là
một “khúc”, nhưng từ một khúc ấy người ta vẫn phải thấy được “trăm năm đời thảo
mộc”, nghĩa là truyện ngắn phải có tính khái quát cao độ. Tóm lại, lời nhận định
của nhà văn Tô Hoài quan tâm đến hai khía cạnh của truyện ngắn. Về mặt nội
dung, truyện ngắn phải khái quát được hiện thực cuộc sống, mang trong mình cái
hơi thở phập phồng nóng hổi của lịch sử, thời đại. Về mặt đặc trưng thể loại,
truyện ngắn hay phải là chỉnh thể thống nhất, dung hòa được các đối cực, giữa cái
khái quát, nắm bắt được các quy luật với cái chi tiết, cụ thể; giữa cái chung và
cái riêng; giữa tổng thể và cá thể…
Cũng là một nhà văn rất thành công với
truyện ngắn, hơn ai hết Tô Hoài hiểu rõ đặc trưng của thể loại này. Lời nhận định
của ông, do vậy, đã khái quát một cách xác đáng mà cụ thể, về những đặc trưng của
truyện ngắn, một thể loại tuy “sinh sau đẻ muộn” nhưng lại có sức hấp dẫn vô cùng
mãnh liệt!
Vấn đề chúng ta cần quan tâm ở đây là tạ
sao truyện ngắn là “cách cưa lấy một khúc của đời sống”, tại sao phải là “đời sống”
mà không phải là bất kì một yếu tố nào khác? Với vị trí là một thành phần của văn
học, đặc điểm của truyện ngắn không thể nằm ngoài sự vận động chung của toàn bộ
nền văn học. Mà đối tượng phản ánh của văn học còn là gì nữa, ngoài hiện thực
cuộc sống – “đời sống” hằng ngày ngoài kia? Nhà thơ Tố Hữu từng nhận định “Cuộc
đời là điểm xuất phát và là điểm đi tới của văn chương”. Hiện thực cuộc sống rộng
lớn, bao la phong phú với nhiều hình thái tinh vi, phức tạp, vừa là mạch nguồn
cảm hứng dồi dào của người nghệ sĩ, vừa là chất liệu sáng tác sống động, nóng hổi,
làm nên sức sống cho tác phẩm. Do vậy, việc hể hiện cuộc sống vào tác phẩm, vừa
là một mục đích tất yếu,v ừa là một nhiệm của cao cả, là trách nhiệm của nhà văn
chân chính.
Như vậy, lẽ dĩ nhiên nội dung truyện ngắn
phải là cuộc sống ngoài kia với những hơi thở rất thực của nó. Nhưng vấn đề là “khúc
cưa của đời sống”, truyện ngắn, sẽ thể hiện biển lớn hiện thực như thế nào? Là
một “khúc cưa” với đặc trưng ngắn gọn vệ dung lượng, truyện ngắn đòi hỏi sự chắt
lọc tinh tế, sắc bén của người cầm bút. Truyện ngắn không chấp nhận kiểu ngôn
ngang, dông dài, suy tư bất tận của tiểu thuyết, nó đòi hỏi sự súc tích, cô đọng,
tạo “những chiều sâu chưa nói hết”. Hiện thực cuộc sống, cái đời sống trong
truyện ngắn, là cái đời sống đã qua lựa chọn, sàng lọc, để gạn lấy những gì tinh
túy nhất, bản chất nhất, nắm bắt được thần thái của sự vật, hiện tượng. Với
truyện ngắn, một bức chân dung tỉ mỉ nhiều khi chỉ còn đọng lại vài đường nét,
cả một đời người nhiều khi chỉ giữ lại vài khoảnh khắc, và một tiến trình nhiều
lúc chỉ chọn ra một vài mốc quan trọng. Như vậy, một khi đã lựa chọn truyện ngắn
làm mảnh đất ươm mầm nghệ thuật, người nghệ sĩ, muốn thành công, không thể không
trau dồi năng lực thâu tóm nhạy bén, sắc sảo giữa biển lớn hiện thực xô bồ, hỗn
tạp, vàng thau lẫn lộn. Với truyện ngắn, đôi khi nhà văn đồng thời cũng phải là
những nhà phẫu thuật, nhà khoa học chân chính, với ngòi bút là ngọn dao không né
tránh, rạch sâu, cắt bén vào thớ thịt hiện thực, để chắt lọc lấy cái gì tuy túy
nhất, bản chất nhất: Những mẩu hiện thực còn phập phồng hơi thở sống động của nó,
và mới mẻ như còn ròng ròng máu chảy khi cắt ra từ cơ thể hiện thực.
Tóm lại, một khi hiện thực muốn mượn truyện
ngắn làm sinh thể để biểu hiện chính nó, thì buộc nó phải chịu đau đớt, phân tách,
để vừa in với chiếc giày pha lê của cô bé lọ lem mang tên truyện ngắn.
Nhưng thiết nghĩ, điều làm nên sức sống muôn
đời của truyện ngắn hay, chưa hẳn là ở chỗ thu nén, cô đọng. Vì là “một khúc cưa”
lấy trực tiếp từ đời sống, nên truyện ngắn thể hiện đầy đủ và tập trung những đặc
tính của hiện thực mà nó được cưa lấy. Khả năng khái quát hiện thực thành nhũng
quy luật cuộc sống mới chính là sức hấp dẫn đích thực của truyện ngắn. Người đọc
mong đợi gì ở một truyện ngắn hay? Chắc chắn họ đọc truyện ngắn không phải là để
chiêm ngưỡng cái tài nghệ thuật thu nén, dồn ép của nhà văn. Truyện ngắn với sức
khái quát của “khúc cưa từ đời sống”, một mẫu vật thí nghiệm chiết tách trực tiếp
của đời sống, có khả năng thực hiện chức năng nhận thức của văn chương để thỏa
mãn nhu cầu hiểu biết về cuộc sống, thời địa, lịch sử của người đọc. Nó cho học
cảm nhận những biến động ngầm của xã hội, cho họ thấy những mảnh đời cơ cực, những
thân phận bất hạnh giữa cuộc đời dâu bể, để rồi nó chạm vào tận đáy tim họ khi cho
họ đối diện với chính mình, với những buồn vui yêu ghét, với những khát khao và
ước vọng của đời mình. Chỉ có thể, truyện ngắn mới có thể neo đậu trong trái
tim người đọc, mới có thể sống mãi.
Về với tâm hồn bình dị của “làng”, của “đất”
của “thuần hậu nguyên thủy” trong trang văn Kim Lân, ta bắt gặp một “khúc cưa của
đời sống” đầy đặc sắc. Đó là truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Truyện “Vợ nhặt” không dông dài, không dàn
trải, chỉ vỏn vẹn khoảng mười trang, đúng nghĩa với một “khúc cưa đời sống”, ngắn
gọn, súc tích. Có nhiều nhặn gì cho cam – chỉ một vài khung cảnh, một vài đường
nét, một vài âm thanh… được Kim Lân chiết tách ra từ hiện thực cuộc sống. Ngay
cả các nhân vật anh Tràng, bà cụ Tứ, cô vợ nhặt, cũng chỉ hiện lên từ buổi chiều
chập choạng hôm trước đến sáng hôm sau, cái thời gian cũng chẳng thâm là bao so
với cả đời người. Tất cả những gì tưởng như rộng lớn nhấ, bao quát nhất đã được
Kim Lân khéo léo thu nhặt, cắt xẻ rất gọn, vừa vặn với truyện ngắn.
Như đã nói ở trên, nếu chỉ dừng chân ở lằn
ranh “thu nén”, thì truyện ngắn – khúc cửa của đời sống không thể chạm vào trái
tim bạn đọc đang thổn thức ở phía bên kia trang giấy. “Vợ nhặt”, truyện ngắn ấy
hấp dẫn ta trước hết bởi hiện thực cuộc sống được khái quát lên từ những chi tiết
cô đọng, hàm súc.
Đập ngay vào mắt chúng ta là một khung cảnh
tăm tối, tang tóc, hoang tàn của cái đói và cái chết. Bức tranh toàn cảnh của hiện
thực đau đớn quằn quại lẩn khuất sau những chi tiết mà nhà văn khắc họa. Cái đói
bao trùm khắp nơi, bóng tối lan tỏa. “Nhà hai dãy phố up súp tối om”. Mùi tử khí
nồng nặc. “Khắp nơi vẫn còn vẩn lên mùi hôi thối của rác và mùi gây của xác người”.
Âm thanh thì ghê rợn, kinh hãi, “tiếng quạ kêu thê thiết”, “tiếng người khóc từ
xa vọng lại, lúc to lúc nhỏ”. QUả là một bức tranh kinh hoàng! Người đọc như
kinh hãi khi mường tượng ra một tên thần chết nhởn nhơ đi trên con đường làng lênh
láng đau thương và đói khổ, nhếch miệng cười khi lia lưỡi hái qua “những xác chết
nằm còng queo”. “Người chết như ngả rạ”. Người đọc như nghẹt trước thế giới ấy,
cái thế giới cõi âm cõi dương như nhòa trộn. Người chết tồn tại cùng người sống.
Người sống thì “vất vưởng, xanh xao như những bóng ma”, còn người chết thì nhan
nhản, la liệt khắp nơi. Chỉ chọn một vài chi tiết từ bức tranh toàn cảnh, Kim Lân
đã phác họa nên toàn cảnh nạn đói năm 1945 cướp hơn một phần mười dân số nước
ta. Cái hiện thực ấy quặn đau và ám ảnh, đè trĩu tâm can những con người từng
trải qua thời ấy, đòng thời vương lại những thoáng đau thương ghê sợ trong tâm
trí những người sinh sau. Và hiện thực mà “khúc cây” – truyện ngắn ấy khái quát,
còn là lời tố cáo đanh thép đầy căm thù, đến bè lũ phát xét, thực dân đang ăn mòn
sự sống của con người.
Không chỉ khái quát hiện thực thời đại, không
chỉ nắm bắt những hiện trạng khách quan, cái hoàn cảnh bên ngoài, “khúc cưa” –
truyện ngắn còn đi sâu vào khái quát con người thời đại, tức là từ một nhân vật
cụ thể, từ một tên tuổi rõ ràng, nhà văn phải tìm ra được những nét tính cách
chung của một lớp người, thậm chí của một thời đại.
Qua Tràng, bà cụ Tứ, cô vợ nhặt, những nhân
vật thuần hậu bước ra trừ trái tim giản dị gắn bó với cuộc đời, Kim Lân đã tìm
ra được những nét tính cách tốt đẹp, tìm ra chất người bất từ trong những kiếp
người nhỏ bé, lọt thỏm giữa bão giông của thời đại.
Dù đói khổ, nhưng hoàn cảnh không thể dập
tắt đi niềm ham sống, dù bắt nguồn từ bản năng ham số,g hay thăng hoa thành khát
khao sống đúng với chất người, thì đó vẫn là những nét tính cách đáng quý, đáng
trọng. Việc cô vợ nhặt bị chấp nhận đi theo Tràng giữa hoàn cảnh thê lương, tang
tóc đó chính là một biểu hiện của khát vọng sống, của bản năng ham sống. Nhưng ở
Tràng, cái khát vọng ấy có phần còn cao quý hơn: Khát vọng được làm người. Chính
vì thế, mà anh mới “Chậc, kệ” như để dánh cược với số phận, trong cái cảnh “gạo
thóc đến thân mình không biết có nuôi nổi mình không mà còn đèo bòng”. Cái đánh
cược ở đây là Tràng đã giao phó sinh mạng mình để đối lấy hạnh phúc, trong canh
bạc nghiệt ngã của số phận. Anh khao khát hạnh phúc biết bao nhiêu! Chính niềm
hạnh phúc ấy làm anh “quên hết cảnh sống ê chề tăm tối quanh mình”, là nguồn gốc
của cái cảm giác mơn man như ôm ấp, “như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng” nơi Tràng.
Đó là cái run rẩy của con người lần đầu tiên chạm tay vào hạnh phúc.
Một nét tính cách nữa mà “khúc cưa” – truyện
ngắn “Vợ nhặt” đã đi sâu vào tìm tòi, khơi phá, đó chính là lòng nhân hậu, lòng
trắc ẩn cao quý, ấm áp luôn tỏa sáng trong tâm hồn mỗi con người. Tràng không
nhân hậu hay sao? Giữa cảnh chết chóc ê chề mà vẫn quyết định cưu mang một người
xa lạ, lại còn cảm thấy “có tình nghĩa với người đàn bà kế bên”. Bà cụ Tứ lại
chẳng nhân hậu sao? Tuy nhận ra cái cợ sự vừa “xót xa vừa ai oán”, mà bà vẫn yêu
thương cô vợ nhặt, “coi như con, như dâu trong nhà”. Đỉnh điểm của tình thương ấy
có lẽ nằm ở nồi chè khoán nấu bằng cám mà bà muốn thiết đãi con dâu trong ngày đầu
tiên thị về nhà chồng. Chè nấu bằng cám! Trời ơi! Tủi biết bao nhiêu? Thứ chè cám
vừa đắng vừa bã, lại “nghẹn bứ trong miệng”. Nhưng nghèo quá, nhà bà chẳng có gì
hơn… Chẳng hiểu sao, nhìn dáng bộ người mẹ ấy ta chẳng thấy khinh thường cái thức
ăn kia. Bà “lễ mễ bưng”, “vừa khuấy vừa cười”, lại còn niềm nở “Chúng mày đợi
u, cái có cái này hay lắm cơ!”. Ta có cảm tưởng như cái nồi chè cám kia thực ra
được nấu bằng tình thương cao cả của bà cụ Tứ, cả một bầu yêu thương ấm áp. Và
cũng nhận ra điều ấy, nên sau cái sầm lại thất vọng có chút gì đó bản năng và
thoáng qua, cô vợ nhặt vẫn điềm nhiên và vào miệng. Chính là bởi cô cũng không
muốn phụ một tấm lòng. Nhân hậu làm sao những con người ấy! Chính nhờ họ còn tồn
tại, nên ta còn hy vọng thay đổi, nên truyện ngắn không rơi vào bi lụy.
Đi sâu vào nỗi lòng được chắt lọc từ những
cá thể, nhưng truyện ngắn “Vợ nhặt” vẫn khái quát lên được những quy luật của
cuộc sống, những triết lý nhân sinh sâu sắc. Với Tràng, đó là bài học về hạnh
phúc, con người ta chỉ có được hạnh phúc khi rơi vào tận cùng dâu bể. Giữa hoàn
cảnh đau thương muốn tước đoạt tất cả của con người, muốn tồn tại, con người phải
giữ vững chất người trong mình, đó là niềm ham sống, tình yêu, lòng trắc ẩn, niềm
tin, lòng vị tha, sự lạc quan… Đó là bài học sâu sắc mà “khúc cây” – truyện ngắn
“Vợ nhặt” đã khái quát từ những mảnh cuộc sống thu nhỏ, những lát cắt sống động
mà nó ấp ủ.
Và “khúc cưa” – truyện ngắn ấy cũng đã mở
ra một lối thoát cho con người, một nét phát triển rất nhân văn của phương pháp
sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, khi cho Tràng nhìn thấy lá cờ đỏ, manh nha
một tia hy vọng đổi đời. Điều ấy hoàn toàn phù hợp với sự phát triển chung của
xã hội, lịch sử, mang tính tất yếu.
Như vậy, “Truyện ngắn là cách cưa lấy một
khúc của đời sống”, đó là đặc trưng và cũng là tiêu chí của một truyện ngắn
hay. Nhà văn chân chính không thể không lưu tâm đến điều này. Anh ta phải chú
trọng đến việc quan sát tỉ mỉ cuộc sống để gạn lọc, chắt chiu những gì tinh túy
nhất, nhưng đồng thời mẩu hiện thực chắt lọc cũng phải thâm đẫm tâm huyết của
anh ta trước. Và người đọc cũng đừng phụ bạc tấm chân tình ấy! Hãy đọc bằng tất
cả trái tim nình để hiểu nắm bắt mọi hàm ý ẩn sau vẻ ngoài ngắn gọn, súc tích của
khúc cây – truyện ngắn.
Dòng thời gian là người bạn nghiệt ngã của
trí nhớ và những người hay hoài niệm… Thuận theo dòng chảy vô thủy vô chung của
nó, vạn vật đều nhòa dần, và nằm yên nơi bóng đêm như chiếc lá tịnh lại nơi cội
cây. Duy có nghệ thuật nói chung và những thiên truyện ngắn hay nói riêng là còn
sống mãi. Vì truyện ngắn, bản thân nó là “một cách cưa lấy một khúc của đời sống”,
là sự kết tinh của những tâm hồn đa cảm, những khối óc miệt mài và những trái
tim ấm nóng – những nhà văn chân chính!
“Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời
gian. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin)
TRẦN
LÊ DUY
12 CV TRƯỜNG THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
(NĂM
HỌC 2010 – 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét