Thông tin liên lạc

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

VẤN ĐỀ TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH CHÂN THỰC TRONG VĂN HỌC


1.      Khái niệm
-       Tính hiện thực  (tiếng Pháp: réalité), với nghĩa rộng, thuật ngữ này biểu hiện thuộc tính của văn học trong mối liên hệ với hiện thực, khẳng định sự phụ thuộc của văn học vào hiện thực khách quan. Với nghĩa hẹp, thuật ngữ này chỉ mối tương quan phù hợp như thật giữa phản ánh hiện thực của ăn học với hiện thực đời sống được miêu tả; ở trường hợp này tính hiện thực sẽ đối lập với khái niệm tính ước lệ. (Khái niệm được trích từ “Từ điển thuật ngữ văn học”  - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi).
-       Tính chân thực ( tiếng Pháp: véridicité): khái niệm chỉ phẩm chất làm nên sức hấp dẫn, thuyết phục của văn học, thể hiện ở sự phù hợp sinh động giữ sự phản anh của văn học và đối tượng phản ánh của nó, ở sự thống nhất giữa chân lí nghệ thuật và chân lí đời sống, giữa sáng tạo nghệ thuật và quy luật tất yếu của lịch sử. (Từ điển thuât ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi).
-       Như vậy ta thấy rằng, tính chân thực là đặc tính của văn học chỉ chất lượng phản ánh của tính  hiện thực. Bất kì tác phẩm nào cũng có tính hiện thực, nhưng chỉ những tác phẩm xuất sắc, phản ánh được những vấn đề mang tính cơ bản nhất, bản chất nhất của thời đại, của xã hội, phản ánh dưới những hình tượng nghệ thuật sống động, tôn trọng những quy luật của đời sống, tôn trọng những quy luật của lịch sử, hình tượng thật sự có sức sống riêng chứ không phải là cái loa phát ngôn tư tưởng của nhà văn, thì tác phẩm đó mới được xem là có tính chân thực.
2.      Tại sao văn học lại có tính hiện thực và tính chân thực?
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nội dung phản ánh của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng chính là hiện thực cuộc sống. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Marx – Lenin, theo đó thì, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Văn học thuộc về phạm trù ý thức, mỗi tác phẩm văn học là một khách thể tinh thần đặc thù, nên văn học cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống (hiện thực cuộc sống thuộc về phạm trù vật chất), văn học nhờ cuộc sống mà có, và cũng vì cuộc sống mà phát triển. Không có cuộc sống, sẽ không có văn học. Chính vì vậy có thể khẳng định, không một tác phẩm văn học nào không phản ánh hiện thực, tính hiện thực vì thế là một thuộc tính tất yếu của văn học.
Mặt khác, tác phẩm văn học không phải là bản photocopy của cuộc sống, không phải là sự sao chép nguyên si, vô hồn của cuộc sống. Tác phẩm văn học chính là cuộc sống được thể hiện qua lăng kính chủ quan của nhà văn theo quy luật của sự sáng tạo. Ta có thể hình dung toàn bộ quá trình sáng tạo cũng như toàn đời sống văn học qua một sơ đồ gồm bốn thành phần như sau:
 



Hiện thực cuộc sống, qua sự quan sát, nghiền ngẫm, suy tư, trăn trở của nhà văn,  qua việc nhà văn mở rộng tấm lòng để đón nhận những cung bậc cảm xúc, nhưng suy tư trăn trở, niềm vui, nỗi buồn và cả ước mơ, đã trở thành một hiện thực thứ hai trong trí tưởng tượng của nhà văn. Hiện thực thứ hai này chính là hiện thực cuộc sống ở ngoài kia được tái hiện lại, mang những dấu ấn chủ quan của nhà văn. Nó mang đậm những nét đặc trưng về nhân sinh quan, về thế giới quan, về nhân cách, tấm lòng của nhà văn.
Hiện thực thứ hai này được nhà văn thể hiện vào tác phẩm thông qua chất liệu ngôn từ. Có thể xem quá trình tạo hình văn bản này là một sự kí mã. Hiện thực cuộc sống được phản ánh trong trí tưởng tượng của nhà văn dưới dạng hình tượng. Tác phẩm sau khi hoàn chỉnh và được đưa ra đến công chúng thì trở thành khách thể tinh thần đặc thù. Nói nó là khách thể, bởi vì khi đã hoàn chỉnh tự tác phẩm có đời sống riêng, nó vận động theo những quy luật nội tại của nó, lúc này hoàn toàn nằm ngoài sự chi phối của bất kì ai, kể cả nhà văn. Nói là khách thể tinh thần, bởi vì khách thể đó tồn tại dưới dạng phi vật thể, nó là một hiện tượng thuộc về thế giới tinh thần.
Chính vì quá trình sáng tạo ra tác phẩm là quá trình “kí mã” tư tưởng của nhà văn, nên có thể xem quá trình tiếp nhận là quá trình giải mã. Quá trình giải mã này, thông qua đặc điểm cá nhân của từng chủ thể tiếp nhận, sẽ tạo ra nhiều hiện thực khác nhau. Hiện thực thứ hai mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm, đến với mỗi độc giả sẽ trở thành một hiện thực khác trong thế giới tinh thần của họ. Một cô Kiều của Nguyễn Du khi đến với mỗi độc giả sẽ có dung mạo, dáng vẻ bên ngoài rất khác nhau. Tuy nhiên, quá trình này vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách quan. Tính chủ quan của nó, như đã nói ở trên, quá trình tiếp nhận phụ thuộc rất nhiều vào tầm tiếp nhận, vào khiếu thẩm mỹ, vào nhân sinh quan thế giới quan của từng độc giả. Nhưng mặt khác, tác phẩm văn học, với tư cách là một khách thể tinh thần đặc thù, cũng có những quy luật nội tại của nó, có đời sống riêng của nó. Sự cảm thụ tác phẩm văn học cũng không được phép lệch ra khỏi những quy luật nội tại của tác phẩm, không được sai lệch hoàn toàn với đời sống riêng của tác phẩm. Nếu quá sai lệch, thì đó la sự suy diễn, xuyên tạc, không phải là sự tiếp nhận. Ví dụ một hình ảnh cô Kiều của Nguyễn Du với mỗi độc giả sẽ có dung nhan diện mạo khác nhau, nhưng tuyệt nhiên cô nào cũng phải thập toàn thập mỹ, cả tài, sắc, đức đều phải trọn vẹn, vì đó là những đặc tính cơ bản của của hình tượng, đã được dựng nên trong tác phẩm. Cái chủ quan của mỗi người nằm ở mức độ của cái thập toàn, thập mỹ ấy như thế nào, mỗi người, trong sự tiếp nhận đầy tính chủ quan của mình, sẽ tự vẽ ra những chân dung cô Kiều rất khác nhau trên cơ sở cái khách quan ấy.
Chúng ta thấy rằng: Từ hiện thực cuộc sống đến hiện thực trong tác phẩm, và cả hiện thực trong sự tiếp nhận của bạn đọc, có những khoảng cách nhất định. Chính từ đặc điểm này mà tính chân thực ra đời: Có thể nói tác phẩm nào mà ở đó, hiện thực đời sống, hiện thực mang đậm cái nhìn chủ quan của nhà văn, và hiện thực tái tạo trong trí óc độc giả trong quá trình tiếp nhận càng gần nhau, khoảng cách giữa chúng càng thu hẹp, thì tính chân thực ở tác phẩm đó càng đậm nét, càng sâu sắc. Cũng có thể thấy rằng, chỉ những tác phẩm chạm được đến bề sâu của hiện thực, nắm bắt được những vấn đề bản chất nhất, cơ bản nhất của hiện thực cuộc sống, nêu lên được những vấn đề cấp thiết, nhức nhối của đời sống xã hội cũng như khám phá được những sự thật trong tâm hồn con người, trong số phận con người, thì mới có thể đạt được tầm cao của tính chân thực.
3.      Các đặc điểm của tính chân thực và tính hiện thực trong văn học.

Tính hiện thực
Tính chân thực
Biểu hiện
-          HIện thực hữu hình: những gì nhìn thấy được trong hiện thực cuộc sống
-          Hiện thực vô hình: tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, các vấn đề mang tính bản chất về cuộc đời và con người
-          Sự tương quan sinh động giữa sự phản ánh của văn học và đối tượng hiện tực mà văn học miêu tả.
-          Sự thống nhất giữa chân lí nghệ thuật và chân lí đời sống.
-          Phù hợp với tính tất yếu của lịch sử
Đặc điểm
ð  Tính hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn học.
-          Nội dung mang tính lịch sử: thời đại nào tiếng nói ấy tính cách nào giọng điệu ấy. Nói tính chân thực tức của một tác phẩm tức là nói đến tính chân thực trong một thời đại cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể.
-          Chât liệu nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với chất liệu hiện thực.
-          Biểu hiện khác nhau ở các loại thể khác nhau.

Văn học cần có tính hiện thực và tính chân thực để thực hiện sứ mạng cao cả của mình.
Nhà văn Thạch Lam đừng nói: “Văn chương là một thứ vũ khí vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới xấu xa, giả dối, vừa làm tâm hồn người đọc trong sạch hơn, phong phú hơn”. Tố Hữu thì nói: “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”. Đúng như vậy, theo quy luật của quá trình sáng tạo, tác phẩm văn học phải hướng về cuộc đời, phải giúp làm cuộc đời tốt đẹp hơn. Đó chính là sứ mạng cao cả của văn học. Với tư cách một hình thái ý thức xã hội đặc thù, văn học không thể trực tiếp tác động vào đời sống, mà quá trình tác động, cải tạo này nhất thiết phải thông qua một lực lượng vật chất khác: con người. Một sách lí luận văn học kinh điển đã từng nói rằng: “Vũ khí phê phán không thể thay thế phê phán bằng vũ khí, chỉ những lực lượng vật chất mới đánh đổ lực lượng vật chất”. Văn học khi tác động vào cuộc sống cũng có sức mạnh như thế, khi nó tác động vào cuộc sống thông qua con người. Văn học mở rộng tầm hiểu biết của con người, xốc họ dậy, cho họ điểm tựa, cho họ động lực, cho học sức mạnh để vượt qua nghịch cảnh và chống lại những thế lực xấu xa, tàn nhẫn, văn học hướng con người đến ánh sáng,đến cái đẹp, dạy con người biết ước mơ, biết tin tưởng, biết hy vọng. Văn học giúp con người hoàn thiện mình, và những con người hoàn thiện chính là lực lượng chính để cải tạo cuộc sống
Giá trị hiện thực góp phần đắc lực vào quá trình ấy. Làm sao con người có thể cải tạo cuộc sống nếu không hiểu rõ cuộc sống? Làm sao con người có thể chiến thắng nếu không biết rành rọt, biết tường tận những cái xấu xa, tai ác trong xã hội? Làm sao con người có thể có sức mạnh phi thường để vượt lên tất cả, có thể có động lực, nếu con người không yêu cuộc sóng, không hiểu cuộc sống? Giá trị hiện thực với những vấn đề cấp bách của cuộc sống, với những hiện tượng đời sống đa dạng, phức tạp, với những vấn nạn cuộc sống và cả những số phận đau thương của con người giúp con người hiểu, giúp con người cảm, và giúp con người có sức mạnh để xây dựng cuộc sống.
Chính vì vậy, vai trò của nhà văn cũng rất nặng nề. Nam Cao nói: “Sống đã, rồi hay viết”. Chế Lan Viên nói: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Nhiệm vụ của nhà văn là phải lặn vào biển sâu hiện thực để khám phá ra những hạt ngọc lấp lánh nhất, bản chất nhất để đưa vào tác phẩm. “Người làm nên tác phẩm là nhà văn, người quyết định số phận tác phẩm là bạn đọc” (Gorki). Tác phẩm muốn tồn tại, phải có sức sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc. Mà chỉ những viên ngọc trai tinh chất được gạn lọc từ biển sâu hiện thực, bằng công sức lao động nghiêm túc đầy mồ hôi nước mắt của nhà văn, mới có thể làm được điều đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét