Thời gian trần
thuật: truyện được kể không theo
trình tự thời gian, các sự kiện được lồng ghép một cách uyển chuyển và sáng tạo:
đan xen, đồng hiện giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai để thể hiện sự đối
sánh và tô đậm nét tương phản. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh “Ai ở xa về, có việc vào
nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng
đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào, cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt
vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi…Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pa Tra: cô ấy là
vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra”. Mị xuất hiện ở đầu truyện với
những lời giới thiệu giản lược, tác giả tập trung hướng sự chú ý của bạn đọc
vào hành động chứ không hề miêu tả về ngoại hình và giới thiệu tên tuổi nhân
vật như lệ thường, chỉ biết rằng đấy không phải là
con gái của Pá Tra mà “cô ấy là vợ A Sử,
con trai thống lý”. Mị xuất hiện chỉ với vài lời giới thiệu ngắn gọn
nhưng đầy sức gợi. Người con gái với nét mặt “buồn rười rượi” ấy để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.Phải chăng
đó chính là dấu hiệu báo trước cho một số phận éo le chất chứa nhiều nỗi đau
tinh thần? Từ đó, mạch truyện đưa chúng
ta quay về quá khứ, về gia đình nhỏ với người cha già và tuổi trẻ một
thời đầy khao khát yêu thương của Mị. Tiếp đến là chuỗi ngày sống cảnh ngục tù và trạng thái tinh thần vô cảm khi Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pa Tra. Sống trong
hoàn cảnh ấy, những tưởng ngọn lửa âm ỉ trong Mị đã lụi tàn nhưng mùa xuân năm
nay đến đã thổi một làn gió tươi mới, mạnh mẽ khiến tâm hồn Mị rạo rực. Khát
khao yêu đương và tự do năm xưa nay lại tìm về khiến Mị thổn thức.
Điểm
nhìn trần thuật: Trong tác phẩm
văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm nhìn, bằng quan
điểm trần thuật nào đó. Truyện
Vợ chồng A Phủ được viết theo điểm nhìn chủ quan của tác giả. Tác giả chứng
kiến sự việc và ghi chép, sắp xếp lại nội dung thành một câu chuyện với kết cấu
hoàn chỉnh để kể lại với bạn đọc. Với điểm nhìn ở ngôi thứ nhất, tác giả có thể
chủ động điều khiển toàn bộ mạch truyện để cùng trải nghiệm và chia sẻ với
những xúc cảm, với ước mơ và hành động của nhân vật. Tác giả dưới điểm nhìn này
không chỉ giữ vai trò là người dẫn chuyện mà đôi lúc sẽ đồng hiện trong suy
nghĩ, thể hiện trong phát ngôn của nhân vật, qua đó bày tỏ quan điểm, thái độ,
tình cảm chủ quan và những suy nghiệm của cá nhân.
à Cách trần thuật ngắn gọn, cuốn hút,
cách dẫn dắt tình tiết khéo léo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà
không trùng lặp.
Ngôn
ngữ trần thuật: đa
dạng, sinh động, lời văn kể chuyện, miêu tả từng trải, tinh tế, giàu chất thơ.
Cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, chính xác, giàu tính biểu cảm và tạo hình. Tô Hoài là nhà văn có lối viết văn bình dị, gần gũi
với quần chúng, phù hợp với nhiều đối tượng bạn đọc nhưng không vì thế mà văn
ông thiếu đi sự tinh tế. Ông quan niệm rằng: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt
ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”
+ Lớp từ thông
tục mang phong vị miền núi. Tô Hoài từng kể rằng: “Người Mèo có ngôn ngữ riêng, từ vựng ít, chỉ cần vài chục từ là có thể
giao tiếp được. Tôi học tiếng Mèo, sống trong sự thiếu thốn với người Mèo, có
khi nửa năm không có hạt muối nào”. Có lẽ cũng bởi do tác giả đã từng có
một thời gian công tác và gắn bó với mảnh đất và con người vùng Tây Bắc, đặc
biệt là với người dân tộc Mèo tại các bản làng cao, xa xôi nên vốn sống cùng sự
tinh tế trong cách quan sát hiện thực đã nuôi dưỡng và bồi đắp thêm cho ông
biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán của vùng đất này một cách hấp
dẫn, độc đáo.
“Ở mỗi đầu làng
đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân
ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.”
“Đến
Tết năm ấy. Tết thì vui chơi, trai gái đánh phao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau
đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt
đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng
nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.”
Trong một lần chia sẻ, Tô Hoài đã nói: “Hình ảnh Tây Bắc đau thương mà dũng cảm lúc
nào đã thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.”
+ Lối văn giàu tính tạo
hình, nhà văn đã vận dụng cách nói của
người miền núi hồn nhiên, đầy hình ảnh.
“Hồng Ngài năm
ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các
làng Mông Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc
sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tìm man
mát. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.
"Mày
có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Tiếng chó sủa xa
xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.”
Giọng điệu trần thuật: đa dạng và
lôi cuốn.
Giọng điệu của tác giả có đôi lúc nhập hòa vào dòng tâm tư của nhân vật Mị, diễn tả được những ý nghĩ, tâm trạng
và cả những trạng thái mơ hồ, vô thức của Mị tạo thành kiểu
lời văn nửa trực tiếp:
“Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã
vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng
dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi hết.
Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nay Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chì thấy nước mặt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
"
Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi..."
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi..."
Hay đoạn Mị đồng cảm với A Phủ khi anh bị trói đứng
trong đêm mùa đông giá rét và lòng cô bỗng sôi sục ngọn lửa căm giận bọn thống
lý độc ác:
“ Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt nhớ
đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy
xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người
ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày
trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết
đau, chết đối, chết rét, phải chết. Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình
ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải
chết.”
Nhịp kể chậm rãi, sẻ chia, giọng kể trầm lắng đong đầy cảm xúc thể hiện tình cảm yêu
thương của tác giả với nhân vật:
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị ... Mị thổn thức nghĩ mình không
bằng con ngựa”.
“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa
nhà, lại bị người nhà xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy
máu…”
Nghệ thuật miêu
tả tâm lý nhân vật:
Tô Hoài đã miêu
tả tâm lý nhân vật một cách khách quan, trung thực, biện chứng: cái nhìn
bên ngoài và cái nhìn từ bên trong nhân vật được kết hợp khéo léo. Mị là con
dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, món nợ của cha mẹ cô từ lúc mới lấy nhau,
món nợ của đói nghèo mà Mị phải nhận lãnh từ khi cô còn chưa được sinh ra.
Nhưng thân phận của Mị không phải là trường hợp cá biệt, có biết bao con người
đã và đang phải chịu kiếp sống “lầm lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa” như Mị ở bản làng xa xôi hẻo lánh này. Bọn
thống trị đã lợi dụng hủ tục, thần quyền để bóc lột dân chúng và đẩy họ vào
đường cùng, biến họ trở thành những công cụ lao động biết nói. Sống trong hoàn
cảnh ấy, Mị mỗi ngày một lầm lũi hơn, cô trở nên câm lặng, cam phận tủi nhục và
lay lắt sống qua ngày với sự tê liệt ý thức ngày càng trầm kha hơn qua năm
tháng. Đời sống tủi cực tăm tối đã che lấp đi con người trẻ trung, đầy khát
khao yêu thương của Mị ngày trước.
Bị giam hãm đọa đày trong cái địa ngục trần gian nhà thống lý, Mị đang
chết dần, chết mòn với năm tháng. Con người ta thường tồn tại trong ba quan hệ
thời gian, không gian và giao tiếp. Ba quan hệ ấy với Mị gần như bị triệt tiêu.
Dấu hiệu của sự tê liệt tâm hồn trong Mị chính là nhận thức về thời gian và sự
giam hãm của không gian, với biểu tượng chính là “chiếc cửa sổ lỗ ô vuông bằng bàn tay”. Nếu nhận thức thời gian
thuộc về ý thức, là thứ mà Mị có thể thay đổi, và thực tế là đã được thay đổi
nhờ sự tác động của tiếng sáo, thì không gian giam cầm kia lại là những cái
khách quan, không thể thay đổi được. Tâm hồn Mị đã hồi sinh nhưng thống lí Pá
Tra vẫn còn đó, sự giam cầm vẫn còn đó, số phận của Mị vẫn không thay đổi. Sự
bừng tỉnh của tâm hồn bị hoàn cảnh khách quan ngăn chặn, đẩy Mị vào bi kịch tâm
hồn, đau đớn tột độ, nỗi đau lại càng nhân lên gấp nhiều lần khi Mị nhận thức
được chúng.
+ Diễn biến tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân:
Mùa xuân đến,
Mị cũng uống rượu, nhưng không phải uống theo cách thông thường,“Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị như đang uống cái đắng cay của
phần đời đã qua, uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Rượu làm cơ thể và
đầu óc Mị say nhưng tâm hồn Mị đã tỉnh lại sau bao ngày câm nín, mụ mị vì bị
đày đọa. Khi nghe tiếng sáo gọi bạn
tình, Mị nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ: Mị thổi sáo, thổi
lá giỏi, “có biết bao người mê, ngày đêm
đã thổi sáo đi theo Mị” rồi “… Mị
thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày
trước… Mị muốn đi chơi…”.
Và liền ngay sau đó, Mị có ý nghĩ lạ
lùng:
“Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ
lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”.
Khi ý thức về sự sống tìm về trong ý nghĩa đầy đủ nhất
của nó, khi khát khao yêu thương và tự do khiến tâm hồn Mị bồi hồi rạo rực thì
cũng là lúc cô muốn tìm đến cái chết nhất. Nghịch lý này được lý giải bởi sự tự
ý thức một cách cao độ. Sau bao ngày lầm lũi trong kiếp sống nô lệ, Mị đã tỉnh
thức và bẽ bàng nhận thấy tình cảnh đau xót trong bế tắc của mình. Lúc này, trong đầu Mị vẫn đang rập rờn tiếng sáo:
“Anh
ném Pao, em không bắt
Em
không yêu quả Pao rơi rồi”.
Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tình yêu tự do đã
thổi bùng lên ngọn lửa tâm hồn Mị. Chính
tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ở Mị: ý niệm về thời
gian, hoài niệm về tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phúc, tình yêu trong con người
tưởng đã chai sạn, vô cảm bởi lao động cùng cực, đau khổ, bất hạnh. Và cũng chính những sục sôi trong tâm hồn đã
thôi thúc Mị đến hành động: Mị “lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
dầu”, Mị muốn thắp sáng lên
căn phòng vốn bấy lâu chỉ là bóng tối, thắp ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của
mình. Rồi Mị “quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở
phía trong vách”, Mị muốn
được đi chơi xuân và quên hẳn sự có mặt của A Sử.
Khi bị A Sử
trói đứng:
“Trong bóng tối,
Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn, Mị
vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”
Mị quên hẳn mình đang bị trói, vẫn thả hồn theo những
cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bên tai.
“Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa
được...”
Khát vọng đi chơi xuân đã bị chặn đứng, càng cố vùng
thoát khỏi hiện thực Mị lại càng bị hiện thực giằng kéo và siết chặt lại.
“Mị nín khóc, Mị
lại bồi hồi (…). Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ (…). Mị lúc mê lúc tỉnh…”
Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch:
khát vọng mãnh liệt bị hiện thực kìm tỏa nhưng chính sự kìm tỏa đó lại càng
khiến cho sức sống của Mị thêm mãnh liệt sau đó.
Qua đoạn miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật Mị trong
đêm tình mùa xuân, tác giả đã gửi gắm một tư tưởng thấm đẫm giá trị nhân văn,
nhân đạo: sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn
âm ỉ và chỉ cơ hội, sức sống mãnh liệt ấy sẽ bùng cháy thành ngọn lửa lớn. Tâm
trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân là diễn biến của sự hồi sinh tâm hồn: từ
lúc thức tỉnh, cho đến lúc hồi sinh, và lên đến đỉnh điểm là khao khát sống để
rồi có những khoảnh khắc gần như hoàn toàn hồi sinh khi tạm quên đi hoàn cảnh
để đi theo tiếng gọi của tâm hồn. Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị đi qua những
cung bậc theo mức độ tăng tiến dần, từ dòng hồi tưởng đến sự đấu tranh, giằng
co quyết liệt giữa hiện thực và khát
vọng.Tâm trạng của Mị còn là cuộc giao tranh căng thẳng, dữ dội giữa hiện thực
và khao khát, không ít lần khao khát sống giúp Mị vượt qua hiện thực, nhưng rồi
Mị lại bị hiện thực giằng lại, bị hiện thực vùi lấp. Hiện thực cay đắng không
thể thay đổi cuối cùng đã vượt lên khao khát sống, đã chà đạp và giày xéo lên
khao khát sống trong Mị, đẩy Mị vào đau đớn tận cùng, và tiếp tục giam cầm Mị
vào nhà tù của sự tê liệt ý thức.
+ Diễn biến tâm
lý nhân vật Mị trong đêm mùa đông
Cảnh mùa đông và cảnh sống tăm tối, tủi nhục, đau đớn
ê chề trở lại sau đêm tình mùa xuân dường như một lần nữa giết chết sức sống
trong Mị, Mị lại trở thành một cô gái “lùi
lùi nơi xó cửa”, sống vật vờ như một chiếc bóng, vật vờ bước đi trong không
gian nhỏ hẹp đau khổ, trong thời gian tưởng như miên man bất định. Một lần nữa,
Mị lại bị tê liệt cả về thể xác lẫn tinh thần.
Sau đêm tình mùa xuân ấy, liệu Mị sẽ tiếp tục lầm lũi cam chịu cuộc sống
tủi nhục tại nhà thống lý Pá Tra với A Sử hay sẽ thức tỉnh để mạnh mẽ tìm một
lối thoát cho cuộc đời mình?
Khi thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa, hơ
tay”, “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Ban đầu trước
cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm. Sự tê liệt tinh thần làm Mị trở
nên dửng dưng, không còn đoái hoài đến mọi việc xung quanh. Có đêm A Sử về, “đánh
Mị ngã ngay xuống cửa bếp”. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Mị đã rơi vào nỗi đau tận
cùng, khiến không nỗi đau nào có thể làm tổn thương Mị hơn nữa. Mị hờ hững, lạnh nhạt với
những gì đang diễn ra xung quanh mình bởi Mị chỉ đang cố gắng duy trì sự sống
trong vô thức chứ không phải đang sống mà đúng hơn là không được sống một cách
đúng nghĩa. Sự tê liệt tinh thần làm Mị trở nên chai lì trước đòn roi, không còn
quan tâm đến những nỗi đau thể xác mà A Sử hành hạ. Nếu còn ý thức, còn cảm
giác chắc Mị đã sợ đòn roi của A Phủ, đã không chai lì tiếp tục ra sưởi lửa vào
những đêm sau. Nhưng từ trong cái hành động tưởng như chai lì đó người đọc vẫn
cảm nhận được chút hy vọng, chút sức sống tiềm tàng còn đang le lói dưới cái
xác không hồn kia.
Tâm
trạng của Mị từ lạnh lùng, dửng dưng đến nhận thức và thương cảm.
Sự thức tỉnh bắt đầu ở sự tự thương thân: Nhìn tình cảnh của A Phủ, Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói Mị,
Mị cũng phải trói đứng thế, “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ,
không biết lau đi được”. Mị thấy A Phủ trước mắt lúc này cũng như mình, dẫu biết
cái chết đang treo lơ lửng trên đầu nhưng lại không thể tự giải thoát bản thân,
tự cứu mình. Mị có niềm đồng cảm sâu sắc với A Phủ bởi 2 con người này tuy có
những hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai đều phải đem tuổi trẻ của mình để trả
giá cho những lỗi lầm không do mình làm, những món nợ không do mình vay. Nếu
như Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa đi ở trừ nợ. Cả hai số phận đều thật
đáng thương và bế tắc.
Nhưng nếu như ở lần trước, sau khi ý thức sống trỗi dậy, Mị
nghĩ đến việc ăn lá ngón để chết ngay thì lần này Mị lại cảm thấy uất ức trước
cái hiện thực bất công, vô lý đang đày đọa, giày vò con người.
Thương mình, đến
thương người, Mị chợt nhớ đến người có hoàn cảnh giống
mình nhất, chính là người đàn bà đã từng bị nhà thống lí Pá Tra giết: “Trời ơi
nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói người
đàn bà trước đến chết cũng ở trong cái nhà này”. Ba số phận con người được xâu
chuỗi lại trong một dòng hồi tưởng của Mị. Họ có tội lỗi gì để phải chịu cảnh sống
tăm tối, tủi nhục, phải chịu chấp nhận những cái chết vô lý trong đau khổ, tuyệt
vọng? Tình thương đã đẩy tâm lý Mị đến sự chuyển đổi, phản kháng.
Bước tiếp theo của sự
thức tỉnh chính là sự căm phẫn, là sự nhận thức rõ tội
ác của thống lý Pá Tra: “Chúng nó thật độc
ác”
Và đỉnh cao là sự
thương cảm với A Phủ, là lòng trắc ẩn của
Mị: “Cơ
chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.”
“Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì phải thế”. Vì mê tín, đã đành Mị là
người nhà thống lý Pá Tra thì dẫu có phải chết đây cũng cam chịu, còn A Phủ, vì
lý do gì mà phải chết? Và ngay lúc này đây, lòng thương người đã lớn hơn nỗi
thương mình, Mị không thể tiếp tục câm lặng được nữa, Mị phải hành động, Mị phải
làm điều gì đó để giải thoát cho A Phủ, giải thoát cho con người đáng thương khỏi
cái chết, khỏi cái bóng ma tội ác trong cái địa ngục trần gian này!Lúc này,
lòng thương người đã biến thành thành sức mạnh, thành lòng can đảm để Mị hành động.
Đó là hành động vừa tự phát, vừa tự giác do sự phát triển của tâm lý nhân vật.
“Mị đứng lặng trong bóng tối”
Câu văn ngắn,
được tách ra một đoạn riêng kìm nén bao nhiêu giằng xé tâm trạng của Mị. Mị đứng
trước những sự lựa chọn. Đi hay ở? Sống hay chết? Liệu rằng đi thì thế lực thần
quyền có tha cho Mị ko? Nhưng chứng kiến cảnh A Phủ quật sức vùng lên để chạy về
phía trước, vùng chạy khỏi cái chết nghiệt ngã, bất công, Mị thật sự thức tỉnh. A Phủ đã chạy đến tự do, chạy đến với một cuộc sống mới. Lúc này, Mị
bừng tỉnh, Mị không còn chỉ là muốn sống mà là phải sống, phải thay đổi hiện thực
khổ đau. Trong khoảnh khắc quyết định này, thực tại cuộc sống ập đến. Cuối cùng khao khát sống
đã chiến thắng, Mị vùng chạy theo A Phủ. Giây phút này chính là cái bản lề khép lại một
chuỗi ngày quá khứ đau thương tăm tối và hé mở ra một tương lai tươi đẹp cho lứa
đôi này. Cắt dây cởi trói A Phủ cũng
chính là Mị đã tự cắt đi sợi dây trói vô hình bấy lâu nay đã cột chặt cuộc đời
mình vào quãng đời tủi nhục.
Như vậy, cùng với lòng trắc ẩn, tâm hồn của Mị một lần nữa
lại hồi sinh, sức sống trong Mị lại sống dậy để rồi dẫn đến hành động táo bạo
mang tính chất quyết định: cởi trói cho A Phủ và trốn chạy khỏi Hồng Ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét