Đề bài: Giá
trị nhân đạo của Truyện Kiều thông qua 4 đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Mã
Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Thúy Kiều báo ân báo oán”.
THÂN
BÀI
I.
Giá
trị nhân đạo trong văn học
-
Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con
người, tôn trọng các giá trị của con người.
-
Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo:
o
Trân trọng vẻ đẹp của con người
o
Thương xót cho số phận đau thương của con người
o
Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con
người
o
Thấu hiểu ước mơ của con người.
II.
Biểu hiện
của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều
a.
Trân trọng vẻ đẹp của con người
-Vẻ đẹp ngoại hình:Nguyễn
Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.
+Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả
tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung
vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân
xem trang trọng khác vời
Khuôn
trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa
cười ngọc thốt đoan trang
Mây
thua nước tóc tuyết nhường màu da”
+Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm
nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn
tả hết:
“Kiều
càng sắc sảo mặn mà
So
về tài sắc lại là phần hơn
Làn
thu thủy, nét xuân sơn
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
+ Cũng như những nhà thơ
trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật,
nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với
thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải
“thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
-Vẻ đẹp đức hạnh:
+ Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong
lưu rất mực hồng quần
Xuân
xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm
đềm trướng rủ màn che
Tường
đông ong bướm đi về mặc ai”
+Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp
của đạo Hiếu:
“Xót
người tựa cửa hôm mai
Quạt
nồng ấp lạnh có ai đó giờ?
Sân
Lai cách mấy nắng mưa
Bây
giờ gốc tử đã vừa người ôm”
+Ờ Kiều, người đọc còn trân trọng một đức tính thủy chung:
“Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng
Tin
sương luống những rày trông mai chờ
Chân
trời góc bể bơ vơ
Tấm
son gột rửa bao giờ cho phai”
+Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn
Thúc Sinh, nàng nói:
“Sâm
Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại
ai há dám phụ lòng cố nhân”
+Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:
“Tha
ra thì cũng may đời
Làm
ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã
lòng tri quá thì nên”
-Vẻ đẹp tài năng: Tiến
bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phũ nữ ở phương
diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng
xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông
minh vốn sẵn tính trời
Pha
nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung
thương làu bậc ngũ âm
Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc
nhà tay lựa nên chương
Một
thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
+Trong quan niệm của Nguyễn
Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần” è nói đến cái tài, bên cạnh
sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
b.
Thương xót cho số phận đau thương của con
người
-Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ,
bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi
mình thêm tức nỗi nhà
Thềm
hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại
ngùng dợn gió e sương
Ngừng
hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
-Đau xót cho cảnh
ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”
“Trước
lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ
non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn
bề bát ngát xa trông
Cát
vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya
Nửa
tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
-Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi
đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương
cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn
trông ngọn nước mới sa
Hoa
trôi man mác biết là về đâu
Buồn
trông nội cỏ rầu rầu
Chân
mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn
trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm
tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
c.
Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên
con người
Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của
những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống
trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
-Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính
cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần
miền có một mụ nào
Đưa
người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi
tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi
tên, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá
niên trạc ngoại tứ tuần
Mày
rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước
thầy sau tớ lao xao
Nhà
băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế
trên ngồi tót sỗ sàng”
-Đồng thời ông cũng phẫn nộ
trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn
đo cân sắc cân tài
Ép
cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn
nồng một vẻ một ưa,
Bằng
lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng:
Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính
nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
“Cò
kè bớt một thêm hai”
d.
Thấu hiểu ước mơ của con người
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: ước mơ một
cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng
phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực
hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi
chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán è
Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
Trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ
ràng:
+Với người có ân, một mực trân trọng è Báo ân cho Thúc Sinh:
“Gấm
trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ
lòng dễ xứng báo ân gọi là”
+Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội,
khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải è Lời nói đanh thép vạch
tội Hoạn Thư:
“Dễ
dàng là thói hồng nhan
Càng
cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
III.
Đánh
giá
Về nội dung:
-
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ
nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương è
Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
-
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ
nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp
con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
-
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy
chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
Về nghệ thuật: Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ
thuật đặc sắc:
-
Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua
ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
-
Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô
trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
-
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng
hoa ngôn ngữ dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét