Tố Hữu đã từng nói, đại ý, điểm khởi đầu và đi tới của văn học
chính là cuộc đời. Quả thật như vậy, tác phẩm văn học luôn hướng đến cuộc đời,
với sứ mạng “trở thành một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để
vừa tố cáo vừa thay đổi thế giới xấu xa, giả dối, vừa làm tâm hồn người đọc
trong sạch hơn, phong phú hơn” (Thạch Lam). Đi sâu vào khám phá hiện thực cuộc
sống với những mạch ngầm nóng hổi của thời đại, nhà văn không thể không trăn trở
về một con đường làm để làm cho con người được sống tốt hơn, làm sao để con người
được hoàn thiện mình, trở nên người nhất. Với các sáng tác của chủ nghĩa hiện
thực, vấn đề con đường giải thoát cho những kiếp người thống khổ cùng cực, bao
giờ cũng được các nhà văn đặt ra.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán những năm 1930 – 1945 đã làm xuất
sắc nhiệm vụ của mình đó là phản ánh một cách chân thực và toàn vẹn bộ mặt xã hội
đương thời. Các vấn đề nhức nhối trong xã hội như sự tha hóa đạo đức của con
người, lối sống Tây hóa ăn mòn giá trị đạo đức truyền thống, bộ mặt độc ác, tàn
bạo của giai cấp thống trị, số phận đau khổ cùng cực của người nông dân và người
trí thức, vấn đề tha hóa nhân cách đặt ra cho mỗi con người… đều được phơi bày
một cách chân thực và sắc sảo trong trang viết của những cây bút xuất sắc đương
thời như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… Tuy nhiên, nhược
điểm lớn nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán đó là luôn coi con người là nạn
nhân của hoàn cảnh, chịu sự chi phối của hoàn cảnh, hay nói cách khác, đó là mới
chỉ nhìn thấy vùng nghịch chiều của lịch sử thông qua những mâu thuẫn lớn của
xã hội, mà chưa tìm thấy được những vùng thuận chiều của lịch sử, chưa thấy được
một con đường giải thoát cho các nhân vật. Nên, dù cho tình yêu với các nhân vật
lớn lao và thấm đẫm giá trị nhân đạo, thì Ngô Tất Tố cuối cùng cũng đành để chị
Dậu chạy ra ngoài trời tối đen và “tối như cái tiền đồ của chị”, Nam Cao đành để
cho Chí Phèo phải chết, cái chết tức tưởi đau đớn đến nghẹt thở ngay khi lương
tri trở về, cái chết quằn quại của một con người bàng hoàng khi cánh cửa lương
thiện bị cự tuyệt ngay khi khát vọng sống trở về, ngay khi lương tri cất lên
thiết tha nhất; bà cụ một bữa no phải chết, giữa nạn đói mà lại chết no, một
cái chết đầy nghịch lý, còn những trí thức như Hộ thì quằn quại xơ xác không lối
thoát trong bi kịch tinh thần của mình, để nhân tính bị bào mòn bởi những áo
cơm ghì sát đất, bởi những ước mơ tốt đẹp không thành. Có thể nói, đây chính là
hạn chế lớn nhất về tư tưởng của giai đoạn này, đó là hạn chế chung của thời đại
mà những nhà văn đương thời chưa thể vượt qua được.
Kế thừa những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thế hệ đi
trước, các sáng tác hiện thực của giai đoạn 1945 – 1975 đã dần khắc phục được
nhược điểm của chủ nghĩa hiện thực phê phán khi bắt đầu thấy được khả năng đấu
tranh tiềm tàng của con người, đã nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của
lịch sử, những vùng thuận chiều, bên cạnh việc khai thác một cách sâu sắc những
mẫu thuẫn cơ bản của xã hội (những vùng nghịch chiều). Điều đó dẫn đến một kết
quả tất yếu: Các nhà văn đã tìm ra được hướng đi để các nhân vật giải thoát cho
mình, không còn kết thúc bế tắc đầy đau đớn như trước đây. Các nhà văn 1945 –
1975 đã sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp hiện thực
xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác của trào lưu văn học nghệ thuật ra đời
và phát triển trong cuộc đấu tranh cho sự nghiệp lập và xây dựng xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước trên thế giới[1]. Theo giáo trình lý luận văn học, Hà
Minh Đức, đặc trưng của phương pháp này chính là sự khai thác cả những vùng nghịch
chiều và những vùng thuận chiều của lịch sử. Những vùng thuận chiều của lịch sử
chính là sự vận động biện chứng của hiện
thực trên quy luật khách quan của lịch sử. Nhà văn sáng tác theo phương pháp
này nhìn hiện thực theo chiều hướng vận động của nó, và nhận biết được chiều hướng
phát triển của hiện thực. Chính vì lẽ đó, họ có thể tìm ra được một con đường
cho nhân vật, thuận theo sự phát triển tất yếu theo quy luật lịch sử.
Biểu hiện rõ nhất của việc khám phá những vùng thuận chiều của
lịch sử đó là, các nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa đã nhìn ra được sức mạnh
tự giải phóng của con người. Mà ở trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã
rất sắc sảo khám phá ra sức mạnh to lớn ấy ẩn trong sức sống tiềm tàng của nhân
vật Mị, thể hiện đậm nét trong đêm tình mùa xuân.
Mị là cô con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Mang tiếng
là con dâu, nhưng Mị trong gia đình thống lý không khác gì một người ở, một người
ở bị bóc lột đến tận cùng cả về thể xác và tinh thần. Đánh mất tình yêu đầu đời,
rời xa gia đình, làm quần quật quanh năm, Mị dần trở nên chai lỳ trước hoàn cảnh,
sống như một cái bóng, một “con rùa lùi lũi nơi xó cửa”, không còn nhận thức được
quá khứ, hiện tại, và cả tương lai, không còn muốn chết – cũng có nghĩa là
không còn khao khát sống. Mị thu mình vào trong cái vỏ trơ lì, dập tắt hết mọi
cảm xúc và nhận thức, hoàn toàn tê liệt về tinh thần. Đó là cách cô gái Mèo tội
nghiệp thích nghi với hoàn cảnh sống khắc nghiệt, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen
khổ rồi”.
Vượt qua những ấn tượng đầu tiên về vẻ ngoài “lúc nào cũng
cúi đầu, mặt buồn rười rượi”, trơ lì và tê liệt về tinh thần, Tô Hoài đã khám
phá ra sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị. Khung cảnh mùa xuân đã cộng hưởng với
tâm hồn của Mị, đã trở thành một tình huống đặc biệt để khơi dậy những khao
khát sống mãnh liệt tưởng chừng ngủ yên trong Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình và tiếng
hát văng vẳng trong không gian đã gợi thức trong Mị niềm khao khát sống mãnh liệt.
Mị thấy “mình còn trẻ lắm”. Mị thấy trong lòng mình đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước. Mị cảm thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Hành động uống ực
từng bát rượu như một cách thức phản kháng lại nghịch cảnh trớ trêu của Mị, uống
ực chứ không phải uống ừng ực, uống như nuốt hận, nuốt tủi. Và những biểu hiện
đầy nữ tính của niềm ham sống được miêu tả hết sức tinh tế: Mị xắn một miếng bỏ
thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở
phía trong vách. Đó là ý thức về vẻ đẹp của người phụ nữ, trong những chi tiết
dù là nhỏ nhất. Ngay cả khi A Sử trói Mị lại một cách tàn nhẫn, trong đầu Mị vẫn
“rập rờn tiếng sáo”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những
đám chơi”. Mị “vùng bước đi” – hành động thể hiện tận cùng sức sống mạnh liệt
tiềm tàng trong Mị.
Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa xuân trỗi dậy nhưng bị
dập tắt, trong ê chề đau đớn, tủi hờn. Nhưng đó là biểu hiện đậm nét cho lòng
khao khát sống mãnh liệt của một cô gái trẻ, đó là sự nhận thức giá trị bản
thân sâu sắc khi biết đau đớn trước nghịch cảnh chán chường của bản thân, khi
biết khát khao hạnh phúc. Một con người như vậy, khát khao sống mãnh liệt như vậy,
làm sao có thể chấp nhận được kiếp sống nô lệ, không bằng con trâu con ngựa
kia? Tất yếu sẽ có một lúc nào đó mầm sống ấy trỗi dậy một lần nữa để con người
tự giải thoát cho chính mình, để tìm về những giá trị sống cơ bản của một con
người, để được tự do và hạnh phúc, những giá trị đã bị thế lực tàn bạo của cườn
quyền phong kiến cướp đi một cách nhẫn tâm và vô lý. Và cơ hội đó đã đến: Trong
đêm mùa đông, Mị đã cởi trói và giải thoát cho A Phủ. Hành động Mị cởi trói và
giải thoát cho A Phủ trước hết xuất phát từ nhận thức rõ ràng và phẫn nộ về tội
ác của bố con nhà thống lý: “Chúng nó thật tàn ác”. Nhưng cao hơn tất cả, hành
động ấy xuất phát từ lòng trắc ẩn, từ tình thương của một con người đang ở tận
cùng đau khổ với một người đồng cảnh ngộ. Giọt nước mắt của A Phủ đã một lần nữa
đánh thức Mị và cho Mị sức mạnh để chống lại nghịch cảnh. “Cơ chừng này chỉ đêm
mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế”. Sức sống một lần nữa trỗi dậy và mạnh
mẽ hơn bao giờ hết, nỗi thương mình dâng trào đã được siêu thăng thành tình
thương đồng loại, khao khát sống mãnh liệt của bản thân đồng cảm mạnh mẽ với
khao khát sống của người đồng khổ trong cảnh ngộ quằn quại cận kề cái chết. Đó
chính là lí do lần thứ hai khi sức sống trở lại, nó không còn bị dập tắt nữa,
nó cho nhân vật sức mạnh để giải phóng người khác và chính bản thân mình, và
nhân vật đã nắm bắt được cơ hội đó để tự giải phóng.
Khám phá hiện thực theo
quan điểm duy vật lịch sử, luôn nhìn sự vật trong chiều hướng phát triển của nó, Tô Hoài đã khám
phá ra được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, và hơn cả việc khám phá, Tô Hoài tìm được một vị trí thích hợp cho sức
sống ấy trong tiến trình vận động khách quan của hiện thực cuộc sống để nó phát
huy tối đa vai trò của nó, mở ra cho nhân vật một lối thoát. Hay nói khác
đi, trong quá trình kiến giải những vấn đề của hiện thực và đề xuất giải pháp để
cải tạo hiện thực, Tô Hoài đã tìm ra được một con đường khả dĩ cho Mị, và những
người như Mị: con đường tự hành động, hành động táo bạo để giải thoát cho chính
mình và cho người khác. Chỉ khi tình yêu cá nhân phát triển mạnh mẽ thành tình
yêu đồng loại, chỉ khi con người dám quên mình vì người khác, thì con người mới
có dũng khí để giải phóng người khác, và cũng là giải phóng chính bản thân
mình.
Hẳn nhiên quá trình kiến giải hiện thực qua tác phẩm là một
“hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, nó mang dấu ấn chủ quan của người
nghệ sĩ. Nhưng chủ nghĩa hiện thực khám phá hiện thực như nó vốn có, coi trọng
sự vận động khách quan của hiện thực. Nên tư tưởng của nhà văn, dẫu sao, cũng
không thể đi ngược lại với sự vận động của lịch sử và xã hội. Các nhà văn hiện
thực, dù cho luận điểm của anh về cuộc sống được đưa ra có lý tưởng, đẹp đẽ, có
hoàn mỹ đến mức nào, mà luận điểm đó chỉ là cái nhìn của riêng anh và đi ngược
lại với hiện thực cuộc sống ngoài kia, thì cũng chỉ là lý thuyết suông, là ảo
tưởng vô nghĩa. Cho nên, yêu cầu đặt ra
hết sức khắt khe đối với các nhà văn sáng tác theo phương pháp sáng tác hiện thực
xã hội chủ nghĩa, là không được phép biến tác phẩm thành loa phóng thanh, không
được phép biến nhân vật thành những hình
nhân vô hồn minh họa một cách khô cứng cho quan điểm của cá nhân mình. Để
làm được như vậy, trong quá trình khắc họa hình tượng nhân vật, các quy luật
tâm lý và mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân vật và hoàn cảnh cần được coi trọng.
Nhân vật Mị là một hình tượng nhân vật đặc sắc được Tô Hoài
khắc họa một cách sống động dưới lăng kính của phương pháp sáng tác hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Sức sống của hình tượng nhân vật này thể hiện ở chỗ các chi
tiết về tâm lý, hành động đều rất hợp lý và thống nhất với logic vận động của
hiện thực khách quan. Ta có cảm tưởng nhân vật có sức sống riêng, như một con
người thực.
Tính chân thực của hình
tượng nhân vật Mị thể hiện trước hết ở việc tâm lý nhân vật
được xây dựng thành một quá trình. Ví dụ như trong tác động của tiếng sáo đến
tâm lý Mị:
Tiếng sáo
|
Diễn biến tâm lý của nhân vật Mị
|
Quá trình thức tỉnh của sức sống tiềm tàng.
|
“Ngoài đầu
núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”
|
-Lấy rượu uống ực
từng bát
|
Khung cảnh mùa
xuân chạm vào tâm hồn Mị, khơi gợi sức sống trong Mị.
|
“Văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng”
|
-Nghĩ tới kỉ niệm
hạnh phúc thuở trước: Mị thổi sáo giỏi, ngày xuân uống rượu bên bếp và thổi
sáo, Mị thổi sáo giỏi có nhiều người mê…
-Thấy phơi phới trở
lại, nhận ra: “Mị vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi”.
-Nhận ra hoàn cảnh
khổ cực trái ngang của bản thân, cảm giác muốn chết trở về: “Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.
Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra.
|
-Sức sống dần thức
tỉnh, hồi tưởng về quá khứ è Nhận thức về thời gian trở lại.
-Nhận thức về tuổi
trẻ và lòng ham sống.
-Nhận thức hoàn cảnh
hiện tại, đau đớn tột cùng.
|
Mà tiếng
sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường”
|
-Lấy ống mỡ, xắn một
miễng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
|
-Không còn thấy
đau đớn trước thực tại mà muốn thay đổi nó è Thắp đèn để xua đi bóng tối, cũng như thắp lên một
niềm hy vọng.
|
“Trong đầu
Mị đang rập rờn tiếng sáo”
|
-Mị muốn đi chơi,
Mị cũng sắp đi chơi.
-Mị quấn lại tóc,
với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.
|
-Mong muốn làm đẹp
trở lại è Niềm yêu sống trở lại mạnh mẽ hơn.
|
“tiếng sáo
đưa Mị đi theo những cuộc chơi”
|
-Mị bị trói trong
bóng tối nhưng “đứng im lặng, không biết mình đang bị trói”.
-Mị vùng bước đi.
|
-Sức sống phát triển
đến đỉnh điểm, đưa Mị thoát khỏi thực tại để làm một cuộc giải thoát trong
tâm tưởng, dồn mọi sức mạnh vào hành động “vùng bước đi”.
|
Mị không
nghe thấy tiếng sáo nữa.
|
-Bị trói, tay chân
đau không cựa quậy được.
-Mị chỉ còn nghe
tiếng ngựa đạp lên Vách. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
|
-Sợi dây trói kéo
Mị trở lại thực tại è Sức sống bị dập tắt.
-Khi sức sống trở
về và một lần nữa nhận ra hoàn cảnh đau đớn của mình, tâm trạng Mị đau đớn, ê
chề hơn bao giờ hết.
|
Qua bảng trên, có thể thấy rằng diễn biến tâm lý của Mị trong
đêm tình mùa xuân là một quá trình tăng tiến, qua từng chặng, tâm hồn Mị dần thức
tỉnh, khao khát sống trong Mị dần hồi sinh và trở nên mãnh liệt, biểu hiện cao
nhất của nó chính là hành động “vùng bước đi”. Cũng cần phải thấy sự tác động
qua lại giữa khung cảnh đêm tình mùa xuân, đặc biệt là tiếng sáo với sự phát
triển tâm lý của Mị. Ở đây tiếng sáo văng vẳng từ xa, tới gần; từ ngoại cảnh trở
thành tâm cảnh, khi nó nhập thân vào Mị, văng vẳng trong đầu Mị, nó đã hoàn
toàn đánh thức sức sống mãnh liệt trong Mị.
Qua quá trình ấy, những quy luật tâm lý của đời sống cũng được
Tô Hoài khám phá một cách rất tinh tế.
Đầu tiên là nghịch lý
giữa sự sống và cái chết. Khi Mị không có ý định chết, sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”, lại
là lúc Mị ít thiết tha sống nhất. Nhưng khi khao khát sống vừa trở về, ý muốn về
cái chết ngay lập tức trở lại. Thật ra nghịch lý ấy rất dễ hiểu: Khi con người
khao khát sống, tin yêu cuộc sống, nó đòi hỏi phải được sống đích thực, sống
như một con người. Nếu không được sống với những giá trị cơ bản của con người,
nó thà chết. Cái chết về thể xác trong trường hợp này, là minh chứng cho ý nguyện
sống mãnh liệt của con người. Và ngược lại, cái chết về tinh thần ngay khi con
người đang còn sống, là sự vơi dần của khao khát sống. Chí Phèo của Nam Cao,
ngay khi lương tri thức tỉnh và khao khát lương thiện trở về, không thể sống
mãi như một con quỷ, nên phải tự sát. Với Mị, ngay khi khát khao sống quay lại,
hiện thực bời bời khắc nghiệt như phũ phàng đập vào tâm trí Mị, nên Mị nghĩ
ngay tới lá ngón và mong muốn được chết. Đây là một điểm tâm lý rất người.
Thứ hai, tâm lý theo giới
tính cũng được khám phá một cách rất khoa học. Đó là những chi tiết biểu hiện cho lòng khát khao sống
của một người phụ nữ: quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.
Có thể nói, ý muốn làm đẹp là biểu hiện đặc trưng và mạnh mẽ nhất cho sức sống
của người phụ nữ. Khi tinh thần tê liệt, thì cái váy hoa chỏng chơ trong vách.
Khi sức sống trở về, mái tóc và chiếc váy lại trở thành những gì gần gũi và
quan trọng đối với người phụ nữ.
Bênh cạnh việc khắc họa tâm lý theo một tiến trình phát triển
tăng tiến và logic, tính khách quan của
nhân vật còn thể hiện qua mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển tâm lý nhân
vật và hoàn cảnh. Bảng trên đã cho thấy phần nào mối quan hệ đó, khi chỉ ra
được mối liên hệ giữa tiếng sáo và sự phát triển sức sống trong Mị. Ngoài ra,
ngay trong hành động mang tính bước ngoặt của Mị, đó là cởi trói cho A Phủ và
chạy theo A Phủ, vai trò của hoàn cảnh đối với tâm lý và hành động của nhân vật
cũng rất được coi trọng.
Để cởi trói cho A Phủ,
Mị cần hai điều kiện. Điều kiện cần: Sự thức tỉnh tâm hồn và trỗi dậy lòng trắc
ẩn đối với A Phủ. Quá
trình tâm lý này diễn ra cũng rất logic. Đầu tiên Mị dửng dưng, A Phủ có là cái
xác khô thì cũng thế thôi. Điều này thật dễ hiểu: Cô Mị hiện tê liệt tinh thần,
sống như một cái bóng, bản thân mình còn không thương mình, thì làm sao có thể
đoái hoài đến nỗi đau của kẻ khác đang đứng kia. Nhưng giọt nước mắt A Phủ đã
thức tỉnh Mị. Đầu tiên, nỗi thương mình trỗi dậy, Mị nhớ lại đêm mùa xuân mình
cũng bị trói đứng, và cũng khóc. Tiếp đến, nỗi ám ảnh về người phụ nữ đã chết
trước đây, con người có hoàn cảnh tương đồng nhất với Mị đã thức dậy trong Mị
lòng thương người. Cuối cùng, lòng thương ấy hướng vào đối tượng đang hiện diện
trước mắt Mị kia: A Phủ. Nhưng, Mị sẽ không thể có hành động táo bạo cởi trói
cho A Phủ, không thể vượt qua bao nỗi sợ về thần quyền, nếu hoàn cảnh lúc đó
không thuận lợi với Mị. Bối cảnh câu chuyện lúc bấy giờ rất hợp lý cho một cuộc chạy trốn: Đám than đã vạc
hẳn lửa, Mị không thổi, cũng không đứng lên. Lúc này, mọi người trong nhà đều
đã đi ngủ cả. Chỉ trong bầu không khí tịch mịch và yên tĩnh như vậy, Mị mới có
đủ dũng khí để hành động. Như vậy, bối cảnh
câu chuyện, chính là điều kiện cần cho hành động quyết định của nhân vật Mị.
Trong quá trình vận động
của tâm lý nhân vật, những mâu thuẫn nội tâm cũng cần được chú ý. Ở đoạn kết của đêm mùa đông, khi cởi
trói cho A Phủ, Mị không có ý định chạy theo A Phủ. Chế độ phong kiến thần quyền
miền núi với tộc trình ma đã trói buộc con người. Mị nghĩ rằng ta đã trình ma
nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết rũ ở đây thôi. Thậm chí Mị đã nghĩ đến cảnh
sáng hôm sau bố con thống lý phát hiện ra Mị cởi trói cho A Phủ, sẽ tức giận
trói Mị thế vào đó và để Mị chết. Dù sao Mị cũng không sợ. Như vậy, từ tâm lý
đó đến quyết định chạy trốn theo A Phủ trong tích tắc đã xảy ra một sự giằng xé
nội tâm. Sự giằng xé ấy được Tô Hoài nén rất chặt trong đoạn văn đặc biệt chỉ vẻn
vẹn một câu:
“Mị đứng lặng trong bóng tối”.
Chỉ trong một câu văn thôi, thời gian đọng lại và tâm lý Mị
cũng được thể hiện qua khoảng lặng ấy. Đó là một sự giằng xé về nội tâm: Đi hay
ở? Ở lại thì chết, nhưng đi rồi liệu có thoát khỏi các thể lực thần quyền?
Trong ngã rẽ quan trọng của cuộc đời, khát vọng sống mãnh liệt
đã chiến thắng nỗi sợ thần quyền, đã hoàn toàn giải phóng cho Mị. Điều này hoàn
toàn hợp lý với sức sống mãnh liệt mà ta đã biết ở Mị trong đêm mùa xuân. “A Phủ
cho tôi đi với, ở đây thì chết mất”. Câu thoại ấy đã cho thấy khát vọng sống
trong Mị. Ở hoàn cảnh khắc nghiệt nơi con người được sống không như con người,
khát vọng sống đồng nghĩa với mong muốn chết, chết để không phải nhục nhã ê chề
tủi hổ. Nhưng khi cánh cửa giải phóng con người mở ra, sống và chết lại đối lập
với nhau. Khao khát sống mãnh liệt nhất cũng là sự kháng cự cái chết mãnh liệt
nhất.
Như vậy, ta thấy rằng, con đường tiếp cận hiện thực của phương
pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là con đường tìm ra một lối giải thoát
cho nhân vật khỏi hoàn cảnh cùng khổ, đau thương. Con đường đó phải tuân theo
các quy luật vận động của lịch sử, của xã hội, phù hợp với tâm lý và tính cách
nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà phương pháp sáng tác này ra đời trong sự
nghiệp đấu tranh và xây dựng xã hội của nghĩa của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động trên toàn thế giới. Sự hình thành của Đảng Cộng sản và vai trò lịch sử
của Đảng trong việc giải phóng nhân dân cần lao bị áp bức, là một bước ngoặt
quan trọng trong tiến trình lịch sử. Cột mốc lịch sử đó đã mở ra cho người dân
bị áp bức một con đường tự giải phóng và tìm đến hạnh phúc. Cho nên, nhìn nhận
hiện thực theo vùng thuận chiều đi lên của lịch sử, cũng là nhìn nhận vai trò của
Đảng đối với số phận con người. Vấn đề
tính Đảng là một vấn đề được đặt ra trong phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa.
Có thể thấy một con đường chung (và cũng là tất yếu) để giải
phóng cho các nhân vật cùng khổ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đều là
giác ngộ và đi theo cách mạng, đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Tràng trong tác phẩm
“Vợ nhặt” của Kim Lân cũng có một kết thúc hứa hẹn đổi đời khi trong đầu anh đã
manh nha nhìn thấy trong óc mình hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới”. Còn Vợ chồng A Phủ, trong cuộc sống mới ở Phiềng Sa, cũng dần thấu hiểu
A Châu tham gia du kích để chống Pháp.
Vai trò của Đảng trong lịch sử là không thể phủ nhận, nhưng
cũng không thể đơn giản để nhân vật đi theo ánh sáng của cách mạng một cách
tình cờ, ngẫu nhiên. Như vậy là biến nhân vật thành loa phát thanh tư tưởng, và
như đã trình bày ở trên, tư tưởng dù tốt đẹp đến đâu nếu không biện chứng với
tâm lý nhân vật và hoàn cảnh tác phẩm, thì sẽ không có sức thuyết phục. Con đường
đến với cách mạng của những nhân vật như Tràng, như Mị, như A Phủ phải là một
con đường biện chứng, phù hợp với tính cách nhân vật và hoàn cảnh, phải có một
quá trình biến đổi từ tình cảm, nhận thức đến giác ngộ, hành động.
Tràng, khi nghe cô Vợ nhặt đề cập đến những người phá kho
thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang, đã nhớ đến việc hồi trước anh nghe người ta nói
Việt Minh đến, nhưng anh không hiểu nên đã bỏ đi. Và từ lúc đó, anh lờ mờ nhận
ra ý nghĩa của cách mạng, trong đầu anh dần mở ra một con đường để đi đến tương
lai. Tác phẩm dừng lại ở đó, sự thay đổi nhận thức của Tràng. Và chỉ dừng lại ở
đó là đủ. Con đường đi đến cách mạng của Tràng chắc chắn còn là một chặng đường
dài. Nhưng sự biến đổi nhận thức ngay điểm kết thúc tác phẩm, khát khao hạnh
phúc vốn có trong anh, hơn tất cả là tình yêu thương gia đình mình, yêu thương vợ và mẹ, cái quyết tâm xây dựng một
mái ấm hạnh phúc, sẽ dẫn lối cho Tràng trên con đường tương lai ấy. Đó là một
cái kết mở ra đầy xán lạn mà người đọc có quyền hy vọng.
Với Mị và A Phủ cũng vậy. Giữa họ và A Châu ban đầu cũng có
chút hiểu lầm, nhưng họ dần nhận ra bản chất tốt đẹp của A Châu, và hơn nữa nhận
ra rằng ở họ có điểm chung: cùng bụng ghét thằng Tây, nên họ dần thân thiết, giữa
A Phủ và A Châu đã làm lễ thề kết. Cuộc sống là một chuỗi những sự lựa chọn.
Khi chạy trốn đến Phiềng Sa,dựng nhà trên một đồi gianh trong xuống cánh đồng Bản
Tre, Mị và A Phủ chỉ mong muốn có một cuộc sống yên bình. Rõ ràng qua bao nhiêu
đau đớn khổ cực để giải thoát cho bản thân, con người ta không mong muốn gì hơn
là được bình an. Việc thề kết với A Châu – một chiến sĩ cách mạng, phải chăng sẽ
phá vớ sự bình yên đó? Không, vấn đề thực
sự nằm ở chỗ: Sẽ không có một cuộc sống cá nhân bình yên khi đất nước chưa được
bình yên. Và quả thực là như vậy: Ngay ở Phiềng Sa, không còn thống lý Pá Tra
thì vẫn còn sự hiện diện của bọn Tây, vẫn còn những cảnh bắt bớ phụ nữ, và trẻ
em. Còn bọn Pháp, thi không đâu trên đất nước này có thể có được một cuộc sống
yên bình thực sự. Sự việc Pá Tra theo Tây về đồn Bản Tre chính là một cú sốc lớn.
Trong hoàn cảnh đó, con người có thể chạy trốn để giải phóng mình trong phút chốc,
nhưng sẽ không bao giờ có thể tìm thấy bình yên, một khi kẻ thù của họ vẫn còn,
Pháp còn, Pá Tra còn, thì chúng sẽ còn truy bức, đe dọa lên cuộc sống của mỗi
con người. Như vậy chỉ còn một con đường mà thôi: Chống lại chúng, tiêu diệt
chúng. Tức nước vỡ bờ, ở đâu có áp bức, ở
đó có đấu tranh, cuối cùng để tìm thấy một hạnh phúc đích thực và một tự do
đích thực, Mị và A Phủ cũng không có con đường khác hơn, và cũng giống như
Tràng, họ đều đi theo tiếng gọi và lý tưởng của Đảng.
Tóm lại, ta thấy rằng, chọn phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa để sáng tác, Tô Hoài đã tạo nên một truyện ngắn đặc sắc và thành công. Một
mặt, “Vợ chồng A Phủ” vẫn kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa hiện thực phê
phán, đó là sự khám phá toàn vẹn hiện thực cuộc sống, khám phá ra những mâu thuẫn
bản chất nhất, cơ bản nhất của xã hội, tham gia vào kiến giải mâu thuẫn đó để
làm bật lên được giá trị tốt đẹp của người lao động, đồng thời phê phán một
cách không khoan nhượng bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Mặt khác, tác phẩm
đã khắc phục được hạn chế của thời trước, đã không còn nhìn nhân vật như những
nạn nhân của hoàn cảnh, mà nhìn thấy được tính tích cực chủ động của nhân vật đối
với hoàn cảnh, khám phá ra được khả năng thay đổi hoàn cảnh, đấu tranh để cải tạo
hoàn cảnh của nhân vật. Điều này đã tạo nên âm hưởng lạc quan cho tác phẩm, đặc
biệt là trong kết thúc truyện tươi sáng, đầy hứa hẹn đến tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét