Đề bài:
“Thơ là rượu của thế gian” (Huy Trực)
Anh/chị hãy bàn luận về lời nhận định
trên.
Bài làm
Thơ vừa là chỗ nghỉ ngơi, vừa là việc đầy lao lực
Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành trình
( Raxun Gazatop)
Tôi bước vào thế giới văn chương như
người thi sĩ “thèm say” đi tìm rượu. Văn chương- một thế giới gợi mở bao điều
diệu kì cho những tâm hồn. Tôi sống trong thế giới văn chương với một tình yêu
cái đẹp. Nó huyền ảo như những gam màu chất chứa nhiều tâm sự, nó lung linh bởi
những cái nhìn đa tình, nó nhẹ nhàng như những tình yêu thầm kín, nó êm đềm như
mặt nước hồ phẳng lặng,...Tất cả ta chỉ cảm nhận được khi sống hết mình với
tình yêu văn chương. Với thơ ca, nó có thể làm tôi say bởi những mối tình đẹp,
nó làm tôi nghẹn ngào bởi những đau thương của con người, nó làm tôi trăn trở
bởi những “điều chưa nói” sau những ngôn từ. Thơ ca là thế, nó nói giùm những
tiếng lòng của con người, cất vang những lời hát mang đầy đủ dư vị của trái tim.
Phải chăng vì điều đó mà Huy Trực cho rằng : “Thơ là rượu của thế gian” ?
Thơ là một trong những loại hình kỳ
diệu nhất, “cõi thơ là cõi bồng phiêu”. Đi tìm bản thể của thơ luôn là một hành
trình đầy bí ẩn. Kì diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ thành
nhạc, khi tiếng lòng ta được soi bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh
ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, để tiếng hát ngợi ca sự sống vút cao
trên mỗi trang văn, trang thơ. Từ văn học dân gian tới văn học viết, từ truyện
ngắn tới thơ, tất cả đều có sự giao hòa trong bài thơ cuộc đời, để đóng đinh
vào thời gian một giá trị vĩnh cửu : văn chương nghệ thuật. Vậy thơ ca là gì ?
Thơ bộc lộ để không bộc lộ gì hết. Nó bộc lộ để giấu ẩn hay thơ ở giữa có và
không, thực hữu và hư vô, mời gọi và từ chối ? Phải chăng vì lẽ đó “Định nghĩa về
thơ là định nghĩa cái không thể định nghĩa được” (Huỳnh Anh) ?. Nhưng thơ dù là
tiếng gọi từ cõi vô biên, là cõi huyền nhiệm, hư vô thì vẫn là thực thể của đời
sống. “Thơ là sự hôn phối và cảm thông linh diệu giữa thực và mơ, giữa người
với người và vũ trụ cho nên thi ca gắn liền với hiện hữu và thể hiện qua muôn
vẻ”.
Qủa thật, “Thơ, trước hết là cuộc
đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Belinxki). Thơ gắn liền với đời sống của con
người. Thơ giãi bày hộ con người những điều còn ẩn khuất đằng sau những điều lờ
mờ nhận ra trong cuộc sống. Thơ đi sâu vào tâm hồn con người với những hi vọng
và thất vọng, đau thương và hạnh phúc, hiện thực và ước mơ, tình yêu và khát
vọng,…mọi thứ đều tạo nên chất men để say lòng người. Có phải vì thế mà thơ như
“rượu của thế gian” ? Rượu là một loại thức uống được chưng cất, trải qua nhiều
công đoạn mới thành, cũng như thơ, nó không đơn thuần là sáng tạo trên bề mặt
câu chữ mà nó phải được chọn lọc một cách tinh tế, người thi sĩ phải khổ công
đi góp nhặt những tinh túy cuộc đời, phải thổi tình yêu của mình vào từng lời
thơ để những ngôn từ ấy khi cất lên sẽ tạo được dư ba trong lòng người, lúc đó
nó sẽ như một thứ “rượu quý” làm con người say trong thơ ca, say trong tình yêu
của người thi sĩ đã tạo thành.
Đã bao lần người ta ví nhà thơ, nhà
văn như những con ong cần mẫn đi tìm hoa hút nhụy để mang đến cho đời những
tinh túy, những tốt đẹp nhất của thế gian, đó là thiên chức của người nghệ sĩ. Một
người nghệ sĩ muốn làm cho bạn đọc say trong thế giới thơ ca của mình thì anh
phải là người say trước tiên. Anh phải tạo nên được âm điệu, nhạc tính, những
hình ảnh trong thơ không chỉ gắn với đời sống mà gợi mở những điều chạm đến
trái tim, phải có những khoảng lặng để người đọc say trong “phút yên tĩnh” ấy.
Nhạc - thơ xuất hiện trong tương hợp ấy nên nó rất đẹp, lung linh, kỳ ảo, lưu
giữ lâu bền chất thơ trong lòng người, nhạc hoá hồn thơ, thông qua cách kiến
trúc câu thơ đầy nhạc, đầy âm vang...tất cả được hòa quyện, chuyển hóa trong
nhau để tạo thành một thế giới nghệ thuật, thế giới của sự tương hợp giữa âm
nhạc, màu sắc, hương thơm và cảm giác vang vọng, u sầu, trước hết của chính
người thơ, và sau đó, vươn đến tha nhân, để vẫy gọi những tấm lòng đồng điệu,
tri âm, tri ngộ. Như thế, thơ mới làm say lòng người.
Thơ không chỉ là những tiếng lòng nói
hộ cảm xúc của con người mà thơ còn mang đến những buồn vui trong cuộc sống. Người
ta tìm đến thơ như người buồn tìm đến rượu để giải sầu. Thơ là món ăn tinh thần
giá trị nhất của cuộc sống ban tặng loài người. Thơ – mỗi lần cất lên là làm
con người ta chìm đắm trong những cảm xúc man mác buồn, bàng bạc vui, mơ hồ
nghĩ ngợi,…
Như vậy, nói “Thơ là rượu của thế
gian” là một định nghĩa sâu sắc cho thi ca.
Bước vào nền văn học hiện đại, có thể
nói thơ mới là thơ của những tiết tấu âm vang, của những con chữ biết hát ca và
trò chuyện, thơ của sắc màu rộn rã dù bàng bạc trong nó “nỗi buồn thế hệ” của
một thời đi qua không trở lại. Chính sự say mê với tâm trạng ưu sầu đã dẫn dắt
các nhà thơ trong sự tìm kiếm đề tài, thi liệu hay sự cảm nhận những khía cạnh
đầy chất bi cảm thi vị của đời sống. Họ say sưa với hình ảnh mùa thu gợi cảm
giác hoang liêu của Lưu Trọng Lư, những buổi chiều tà gợi nỗi niềm cô quạnh của
Huy Cận, những cuộc chia li không lời hẹn ước, những tình yêu mong manh không
bao giờ trọn vẹn của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…, hay thích hoài niệm những quá
vãng mà bước chân thời gian đã đi qua và dẫm đạp lên của Chế Lan Viên, …Dường
như với các tác giả thơ mới, khi đi vào những đề tài và thi liệu như thế họ mới
cảm thấy trọn vẹn niềm hoan lạc của sáng tạo. Nỗi buồn trở thành dưỡng khí và
là khởi điểm cho những “dự án” thẩm mĩ đầy thi vị mà các nhà thơ lãng mạn luôn
cần đến. Họ làm người đọc say sưa bởi chất men ở đề tài tạo nên, hấp dẫn và
phong phú bởi đa thể loại.
Không chỉ vậy, thơ ca làm say lòng
người bởi sự liên tưởng, tưởng tượng, khiến người đọc chìm đắm, mân mê trong
những hình ảnh so sánh ví von độc đáo. Qúa trình phát triển của thơ cũng đòi
hỏi người nghệ liên tục làm mới thơ bằng những liên tưởng đầy mới lạ, phù hợp
với thời đại của nhà thơ. Liên tưởng, tưởng tượng vì vậy luôn gắn bó chặt chẽ,
tạo nên sức sống cho những vần thơ.
Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong
các nhà thơ mới, đã vẽ nên một hình ảnh hết sức mới lạ, độc đáo nhưng không
khỏi làm con người say đắm trong tình yêu qua lời thơ của ông. Sự sống trong
cảm nhận của Xuân Diệu mới cụ thể, hữu hình làm sao:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
(Vội vàng)'
(Vội vàng)'
Lăng kính tình yêu đã chi phối liên
tưởng của nhà thơ. Vẻ đẹp của con người trở thành thước đo của vạn vật, cảm
giác đậm màu sắc dục vọng tình yêu lại là cách nhà thơ cảm nhận về thiên nhiên.
Chỉ một liên tưởng độc đáo cũng đủ để tái hiện cả bức tranh mùa xuân rạo rưc
đầy hương sắc, thanh âm, khiến con người ta không sao không chìm đắm với tình
yêu mà Xuân Diệu gợi mở, và hơn hết là khẳng định quan niệm sống “vội vàng” của
con người cháy hết mình vì tình yêu. Xuân Diệu đã ấp ủ, tạo nên chất men tình
kích thích những cung bậc cảm xúc của bạn đọc.
Là một người nghệ sĩ, Chế Lan Viên
hiểu biết sâu sắc về vai trò của trí tưởng tượng trong sáng tạo thơ ca :
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu)
“Con tàu” lên Tây Bắc là sản phẩm của
trí tuệ tuyệt vời cùng khả năng liên tưởng độc đáo của nhà thơ. “Con Tàu” ấy ra
đi trong tâm tưởng và cập bến những tưởng tượng độc đáo, giàu giá trị nghệ
thuật. “Anh với em” trong cái “nắm tay, vắt xôi nuôi quân, mùi hương,..” là
những hình ảnh làm nên trường liên tưởng về tình quên dân gắn bó, bền chặt.
Nghệ thuật liên tưởng, xếp chồng những từ ngữ đã đem đến cho thơ Chế Lan Viên
chất trữ tình độc đáo, chất trí tuệ sâu sắc. Như thế, thơ của Chế Lan Viên làm
sao không đọng lại trong người đọc một tình yêu về Tây Bắc, cảm động trước tình
quân dân của những con người nơi đây. Ấy chẳng phải là chất men thổi vào người
đọc những xúc cảm riêng hay sao ? Ấy chẳng phải người đọc đã say trong thơ,
chìm đắm trong từng hình ảnh thơ cùng Chế Lan Viên hay sao ?
Không chỉ dừng lại ở đề tài đa dạng,
các nhà thơ đã ủ được chất men trong sự
liên tưởng, tưởng tượng đi sâu vào lòng người đọc, làm say đắm lòng người, đòi
hỏi người nghệ sĩ phải có một cái nhìn chủ quan trong thế giới khách quan, phải
đi sâu vào khám phá hiện thực, phải am hiểu đời sống mới viết nên những vần thơ
dạt dào tình cảm nhưng thể hiện được cái tinh xảo của “kĩ thuật” người làm thơ.
Đó chính là “những con ong cần mẫn” suốt đời vì nghệ thuật, đó mới chính là
người nghệ sĩ thực thụ, đó mới chính là những nhà thơ tại nên những vần thơ của
một định nghĩa: “Thơ là rượu của thế gian”.
Thơ đến với con người như dòng sữa mẹ
đến trẻ thơ, như người bộ hành giữa sa mạc tìm thấy dòng nước ngọt mát lành.
Thơ là bạn tâm tình, sẽ chia bao buồn vui với loài người và thơ là sức đồng cảm
mãnh liệt , quảng đại đến với mọi tâm hồn. Người đọc làm sao không say sưa khi
mọi thứ của thơ ca đều hướng đến mục đích cuối cùng là vì con người.
Con người kể cho thơ nghe những tâm
sự, tình cảm rồi thơ trở lại kể cho con người nghe những khúc hát diệu vợi của
cây đàn muôn điệu. Những gì khó tỏ bày quá, “bạn” sẽ là người thấu hiểu giùm
ta. Đó là tình yêu, thế giới đầy vi diệu khó lí giải:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.
Câu thơ Xuân Diệu viết đem đến một
“cảm giác” đẹp về tình yêu. Nếu tình yêu khó nói đến vậy th2 thơ sẽ cho bạn một
cảm nhận, như một thứ định nghĩa trong thơ đầy triết lí. Nhà thơ say trong cái
giấc chiều tà của một tình yêu, chìm đắm trong những khoảng không thơ mộng mà
mộc mạc biết bao. Chính những cảm nhận ấy, người đọc như dậy sóng những tình
yêu. Lẽ nào, sức mạnh của thơ ca lại làm say đắm con người đến thế.
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buồi một hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn rộn cười vui kháng chiến.
Không nói nhiều về nhớ thương đâu, mà
sao qua từng vần thơ nhớ thương vẫn cứ đong đầy, tràn ra ngoài câu chữ. Một
thuở kháng chiến ác liệt, thơ vẫn theo đi để lại nụ cười hạnh phúc kia của
những tấm lòng không sợ gian khổ, để hậu phương đọc mà nở nụ cười vững tâm. Nhỏ
nhẹ như một bài thơ mà “tim, gan” ấy, là lòng chân thực phơi trải ấy của một
con người. Nếu văn học nghệ thuật là tiếng gọi tâm hồn trở về với tâm hồn thì
thơ là “sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Đứng
về phương diện thể hiện cuộc sống, thơ đã gop tiếng nói làm phong phú trái tim
con người, bồi đắp phù sa cho tâm hồn và làm giàu hơn tính thẩm mĩ cho cảm quan
của loài người. Một tình yêu, một lời giao duyên, một điệu nhớ thương, tất cả
làm nên khúc rạo rực tâm tình mà cây đàn thơ ca luôn cần người đến đánh dạo và
ngân ca. Thơ ca đã ra đời giữa những vui buồn của loài người. Thơ bắt nguồn từ
đời sống. Thơ gắn với những nỗi đời. Chính chiều sâu và sự phong phú của đời
sống xã hội đã làm nên những áng thơ bất hủ. Có khi là những mê say, náo nức
của hạnh phúc, có khi là những khổ đau tuyệt vọng, những âu lo, hồi hộp, khát
vọng, mơ ước,..mọi cung bậc tình cảm đều được cất lên. Thơ ca ra đời từ chính
niềm vui nỗi buồn ấy của con người. Thơ làm say con người bởi những men xúc cảm
đánh động đến tâm tư con người một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Vì thế, “Thơ là
rượu của thế gian”.
Thơ ca chỉ làm bạn được với con người
khi con người coi thơ ca là bạn và chân thành làm bạn với thơ ca. Nó cũng như
người bạn rượu đi tìm người tri âm tri kỉ để bày tỏ những tâm sự, những buồn
vui trong cuộc sống. Chỉ khi là sự tìm đến tự nguyện thì thơ ca và bạn đọc mới
tìm thấy sự đồng điệu trong nhau. Xuân Diệu nói : “Thánh Thán xưa ki đọc văn
“Tây sương kí” mà sung sướng nức nở; những kẻ tài tình ở trong muôn đời biết
yêu quý nhau là thế, tri âm là thế. Chúng ta nay, hai tay nâng đỡ lấy của quý
tinh thần, ta lấy lỗ tai bằng đất để nghe thơ hay sao”. Ngay khi nhà thơ mất đi
thì thơ vẫn là bạn với con người. Con người hay độc giả hãy biết trân trọng
những mật ngọt rút ra từ tấm lòng thơ ca. Đến với thơ ca khi bạn đã sống sâu
sắc chân thành với cuộc đời. Và người nghệ sĩ, họ là những cây bút mang đến
những cảm xúc cho con người, nên anh phải làm sao để những men say mà anh
“chưng cất” sẽ thấm đẫm những giá trị nhân văn, hướng về con người, vì con
người. Thơ anh phải say từ chính tình yêu của anh và làm người đọc say bởi sự ấp
ủ, thai nghén đứa con tinh thần ấy. Vì “Thơ là rượu của thế gian” nên thơ là
thế giới nghĩ suy của loài người
Gía trị văn chương muôn đời vẫn thế,
còn người uống rượu thì vẫn lắm kẻ say; còn người làm thơ thì vẫn còn lắm những
vần điệu đánh động đến những tâm hồn. Nó tinh lọc qua thời gian và tạo một dấu
ấn vĩnh cửu đó chính là thi ca. Vậy, con
người say vì thơ “ngôn toại ý ngoại” hay say vì lòng người cũng như thơ ?
(Nguyễn Thị Ý Nhi, Học sinh chuyên Văn trường THPT Nguyễn Thượng Hiền)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét