PHẦN 3: NẾP NHÀ TRONG BỐI CẢNH KINH THẾ TRỊ TRƯỜNG
Năm 1986, trong Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra đười lối đổi mới toàn diện trên
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Theo
đó: “Trong đổi
mới về kinh tế, Việt Nam khẳng định sự nhất quán phải đổi mới cơ bản về chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế, từng bước tạo lập trật tự và cơ chế kinh tế
mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước”.[1] Kinh tế nước ta chuyển từ
kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
20 năm, từ 1986 đến 2005, chính sách kinh tế mới có những thành tựu nhất định[2]: tạo được sự ổn định kinh
tế vĩ mô; cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng của
từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế; kinh tế đối ngoại phát triển
khá, tiềm năng và vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; giáo
dục và khoa học công nghệ có nhiều bước phát triển; công tác xóa đói giảm
nghèo, tăng việc làm đạt nhiều thành tựu và được quốc tế thừa nhận; các lĩnh
vực văn hóa thông tin, y tế sức khỏe, chăm sóc người có công với cách mạng đạt
nhiều thành tựu…
Như một quy luật tất yếu,
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, sự thay đổi về cơ chế quản lý
kinh tế dẫn đến sự thay đổi mọi lĩnh vực khác trong xã hội, trong đó có văn hóa.
Sự biến đổi ấy thể hiện rõ nét ở Hà Nội, thủ đô và cũng là trung tâm kinh tế
của cả nước. Nguyễn Khải nhận xét, đó là “một
vận hội mới, một thời buổi mới, thời mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho mình
và làu giàu cho đất nước”[3], là “thời mà các giá trị cũ mất đi tính tuyệt đối. Còn những giá trị mới
thì lòe nhòe, bảo là phải cũng được, bảo là trái cũng được”11.
Trước những cách làm ăn mới xuất hiện của buổi giao thời, tác giả cũng bối rối:
“Bảo là phải ư? Hình như là không phải,
lắm trò quỷ quái quá. Bảo là trái ư? Cũng chưa hẳn, nó nộp thuế đầy đủ, buôn
bán lương thiện, đúng với pháp luật hiện hành. Thế là gì? Chịu! Nó chỉ là một
cách làm ăn của lúc giao thời”. Bằng sự quán sát tinh tế và sắc bén của
mình, Nguyễn Khải đã nhận biết được sự tác động của kinh tế lên đời sống con
người, khi các giá trị sống trở nên nhòa nhạt con người thiếu kim chỉ nam cho
cuộc sống, thì dường như họ lạc lối. Cuối truyện ngắn “Nếp nhà”, tác giá kết
thúc bằng chi tiết một thanh niên trên đường Phan Đình Phùng hét lên trêu ghẹo
mình: “Chạy lộn đường rồi! Văn Điển đi
lối kia cụ ơi!”. Tác giả gọi cảnh tượng đó là “rác của Hà Nội”, “hàng
hóa nhiều tất nhiên rác rưởi phải nhiều, chứ nghèo quá, đói quá lấy đâu ra rác”.
Câu chuyện ấy một lần nữa xuất hiện trong truyện ngắn Một người Hà Nội, và ở
đây tác giả đã lí giải sâu hơn về hiện tượng đó, đó là do con người ứng xử
trong đời sống dựa vào các giá trị vật chất chứ không phải là các giá trị văn
hóa, điều này thể hiện qua lời cô con gái vợ chồng bạn nhân vật Khải: “Ông mặc tẩm như thế này đi xe đạp họ khinh
là phải, thử đội mũ dạ, áo ba đờ xuy, cưỡi cái Cúp xem, thưa gửi tử tế ngay”.
Như vậy, khi các giá trị sống còn đang lòe nhòe dần định hình, thì trong xã hội
xuất hiện một thang giá trị rõ ràng, hiển hiện, đầy sức cám dỗ: tiền. Con người
trong bối cảnh đổi mới đó cảm thấy ứng xử theo quy luật của tiền, tất nhiên dễ
dàng hơn ứng xử theo những giá trị sống chưa hình thành, đang lờ mờ và khó nhận
biết. Thị trường trở thành ông chủ, với quy luật bất biến, dễ ứng xử. Các giá
trị văn hóa, cách ứng xử của con người xuống cấp, mối quan hệ giữa người với
người, tình yêu thương, sự thủy chung và các giá trị sống khác đang đứng trước
nhiều thử thách và nguy cơ.
Xã hội gặp nhiều biến động,
tất nhiên gia đình không thể thoát khỏi làn sóng đó. Nếp nhà trong bối cảnh
kinh tế thị trường phải đối mặt với sự đe dọa lớn từ những ngụy giá trị, khi
chúng tác động vào tư duy, hành động, và nếp ứng xử của các thành viên trong
gia đình. Trong Hà Nội trong mắt tôi xuất hiện không ít câu chuyện éo le, trái
ngang về cách ứng xử với nhau giữa các thành viên trong gia đình. Trong Chúng
tôi và bọn hắn, tác giả kể về người vợ của một người bạn của mình (anh
bạn tên Phúc), một người phụ nữ tảo tần, đảm đang, giàu đức hy sinh đúng như
hình mẫu truyền thống. Tác giả nhận xét về người phụ nữ ấy: “Chị là vàng mười, là kim cương, là báu vật,
là sự may mắn lớn nhất mà chồng con chị có được ở cõi đời này”. Quả vậy,
năm con gái chị sinh con rồi băng huyết, tưởng như hấp hối, một mình chị đơn độc
giành giật lại con khỏi bàn tay thần chết, bằng sự quyết tâm sắt đá của mình. Ấy
thế mà cuộc đời người phụ nữ ấy gặp quá nhiều bất hạnh. Chồng chị thì ngoại
tình, tác giả nhận xét rất cay đắng: “Ông
đã ngoài sáu mươi thì tình nhân của ông là 50 hay 20. Chịu!”[4].
Cả một đời người mẹ ấy lo cho con, cho cháu, nhưng con dâu thì đối xử với chị rất
bạc. Lời chị tâm sự thật tủi: “Tôi biết
phận tôi lắm ạ, bảo gì làm nấy, trung thành tận tụy, tuyệt đối không cãi một lời
mà vẫn bị nó ghét. Trông con nó đã được gần một năm bỗng dưng một hôm nó thuê
đâu một con bé đem về, bảo bà đưa cháu cho con bé kia bế, rồi tự nó đi làm cơm,
cho bà ngồi chơi, hỏi không nói, gọi không thưa”[5].
Những phẩm chất đức hạnh của người phụ nữ truyền thống không làm cho họ
hạnh phúc, mà khiến họ trở nên cực khổ, tủi nhục, khiến họ vất vả lao tâm khổ tứ
nhưng lại không được coi trọng. Tình cảnh ấy càng đáng thương hơn khi con người
xem trọng giá trị vật chất, tiền bạc hơn tình cảm.
Cũng trong Chúng
tôi và bọn hắn, có một tình huống rất nghịch ngạo, hài hước xảy ra.
Nhân vật tôi đến thăm gia đình một người bạn tình thân như người nhà, hai vợ chồng
ấy rất muốn mời cơm nhân vật tôi, nhưng lại không dám, hai vợ chồng nhìn nhau
ái ngại. Hóa ra, anh con trai của họ không thích bố mẹ tiếp đãi bạn bè, nếu
chưa có sự đồng ý của anh. Thời thế rõ
ràng đã thay đổi, quyền hành gia đình không còn hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ
già, mà ở những người con, đặc biệt khi những người con là những doanh nhân
thành đạt, nắm “quyền lực kinh tế” trong gia đình.
Khi con người
ứng xử với nhau dựa trên giá trị vật chất, các tình cảm thân ái, chan hòa, các
mối ràng buộc thiêng liêng truyền thống
đứng trước nguy cơ bị đạp đổ. Trong truyện ngắn Tiền, một cuộc chiến giữa các
thành viên trong gia đình đã diễn ra, các anh em trong một gia đình đòi bán
nhà, hương hỏa dòng họ, chia tiền đều làm bốn phần để mỗi gia đình có nhà riêng
mà ở. Gia đình nhân vật chính, cô em họ Hiền của nhân vật tôi, không đồng ý,
quyết bảo vệ quyền lợi của mình. Thậm chí đến nỗi: “Em là người nặng tình cảm họ hàng lắm. May sao lần này em không anh em
lằng nhằng gì cả. Đã đụng vào quyền lợi của nhau tức là kẻ thù rồi. Có phải
dùng dao mà xử em cũng dám”.[6]
“Truyện ngắn là cách cưa lấy một khúc của đời sống” (Nguyễn
Minh Châu), quả đúng như vậy, những câu chuyện Nguyễn Khải kể trên là những sự
việc mắt thấy tai nghe, của những con người cụ thể, những số phận cụ thể, nhưng
qua các chi tiết được tác giả chọn lọc bằng trực giác nhạy bén và khả năng quan
sát tinh tường, những sự việc ấy lại có sức khái quát nghệ thuật rộng lớn. Những
câu chuyện về gia đình tác giả kể ở trên không phải xa lạ hay cá biệt, mà dường
như có thể gặp ở bất kì gia đình nào, với các mức độ khác nhau. Trong bối cảnh
kinh tế thị trường, con người có thể đánh mất chính mình, và khi đánh mất chính
mình, họ cũng không còn khả năng bảo vệ, gìn giữ nếp nhà nữa.
Quá trình
con người sống trong cuộc đời, xét cho cùng là một quá trình không ngừng nhận
thức bản thân, để định vị vị trí của bản thân trong xã hội, trong vũ trụ, giữa
đồng loại. Đó là quá trình tìm kiếm chân lý, tìm kiếm một lẽ sống, để trả lời
cho các câu hỏi: Ta là ai, ta từ đâu tới, vì sao ta sống, ta sẽ đi về đâu. Con
người tìm kiếm câu trả lời ấy từ thực tiễn, từ những phản hồi của hiện thực va
đập với họ, thông qua ứng xử của họ với hiện thực. Trong Hà Nội trong mắt tôi, vấn
đề ứng xử với tiền được tác giả đặt ra, như một luận điểm quan trọng để giải
quyết vấn đề làm thế nào để giữ gìn văn hóa, làm thế nào để con người sống đẹp,
làm thế nào để bảo vệ nếp nhà.
Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Khải xây dựng nhân vật cô em họ Hiền trong Tiền như một đối cực với bà cụ trong Nếp
nhà và cô Hiền trong Một người Hà Nội. Cả ba nhân vật này
đều là những nhân vật nữ với vẻ đẹp trí tuệ sắc sảo, giàu bản lĩnh sống. Cả ba
cũng đều phải đưa ra những sự lựa chọn trong cuộc sống, đánh cuộc với cuộc sống
để tìm kiếm chân gia trị. Sự khác biệt duy nhất giữa họ, là thái độ của họ trước
thời cuộc, biểu hiện cụ thể là cách ứng
xử của họ với tiền.
Có thể thấy
hai xu hướng rõ ràng. Một là dè dặt, giữ một khoảng cách với tiền, đó là cách ứng
xử của bà cụ trong Nếp nhà và cô Hiền trong Một người Hà Nội. Họ khước
từ mọi nguồn lợi vật chất có thể mang đến cho họ. Bà cụ trong Nếp
nhà từ chối bán hay cho thuê căn nhà triệu đô. Cô Hiền chọn làm nghề
hoa giấy, một nghề chỉ đủ nuôi sống gia đình. Tuy vậy, không phải họ cực đoan
phủ nhận giá trị đồng tiền. Bà cụ trong Nếp nhà tự nhận mình là người biết
quý trọng đồng tiền, từ trẻ đến già. Cô Hiền trong Một người Hà Nội luôn muốn
những người thân trong gia đình mình có thể độc lập mà sống, “không phải ăn
bám” (do hoàn cảnh thời cuộc). Vấn đề ở chỗ, cả bà cụ trong Nếp
nhà và cô Hiền trong Một người Hà Nội, đã nhận thấy sự biến
tướng của sức mạnh đồng tiền trong bối cảnh mới. Khi các giá trị nền tảng sụp đổ,
con người chao đảo trước cuộc sống, đồng tiền hiện lên như một nhân tố mới đầy
hấp dẫn. Thời bao cấp, người ta quy mọi thứ ra gạo. Thời đổi mới, người ta quy
mọi thứ ra tiền. Khi ấy con người dễ bị đồng tiền cám dỗ, không đến với tiền bằng
lí trí, mà bằng cảm tính, và vì thế, họ dễ bị đánh mất chính mình. Nguyên nhân
là do con người chưa được giáo dục để ứng xử với tiền. Bà cụ trong Nếp
nhà đã đúc kết rất chính xác: “Bây
giờ các con anh đều lao vào kiếm tiền, đều nuôi mộng làm triệu phú tỷ phú trong
chớp mắt. Khốn một nỗi chúng lại chưa từng được ai dạy bảo cách ăn ở với đồng
tiền. Đồng tiền vừa là đầy tớ, vừa là ông chủ, vừa là bạn đường, vừa là giặc cướp,
các con anh biết chọn cách nào? Chúng chỉ biết lựa chọn theo trực giác, theo
kinh nghiệm tức thì, theo lợi ích trước mắt”[7].
Theo bà, “Bàn tay thương vợ, bàn tay yêu
con, bàn tay nắm tay bạn bè đếm mãi tiền nhiễm độc lúc nào không hay, sẽ không
còn là bàn tay người nữa”[8].
Bà cụ đã thể hiện một niềm lo âu về nguy cơ đánh mất chính mình và làm tan rã
các mối quan hệ xã hội, của xu hướng chạy theo đồng tiền trong thời buổi kinh tế
thị trường.
Xu hướng chạy
theo đồng tiền, nắm bắt mọi cơ hội kiếm tiền mà cánh cửa cơ chế thị trường mở
ra, chính là xu hướng thứ hai trong lẽ ứng xử với tiền, xu hướng mà cô em họ Hiền
trong Tiền lựa chọn. Có thể thấy, toàn bộ lo âu của bà cụ trong Nếp
nhà đều ứng nghiệm vào nhân vật cô em họ Hiền này. Ở nhân vật này diễn
ra một sự đánh mất chính mình mà bản thân cũng không nhận thấy, đến khi nhận ra
thì đã quá muộn.
Lựa chọn của
Hiền khi chạy theo cơ chế thị trường, khởi điểm rất chính đáng. Có tiền, để xây
dựng gia đình hạnh phúc. “Hiền mong muốn
cái trẻ trung của mình, cái tháo vát của mình sẽ làm cho ngôi nhà vui hơn lên, ồn
ào hơn lên, là một cái nhà đang sống, đang phát đạt. Cô ao ước hy sinh để vun vén, để hàn gắn một cái gì đang vỡ ra. Tất
nhiên là phải có tiền, có rất nhiều tiền.”[9]
Mặt khác, Hiền cũng đã quá thấm thía cái cay đắng khi thiếu tiền, sau cảnh vượt
cạn thập tử nhất sinh, nhìn cuộc sống tiêu điều, thiếu thốn, phải bán tài sản để
trả nợ, Hiền đã cay đắng biết bao: “Chó
ơi là chó! Người ơi là người! Người không có tiền cái chân không bằng con
chó!"[10]
Và đồng tiền kiếm được, rõ ràng đâu phải là một sự vun vén hạnh phúc cá nhân,
khi có thể lo cho gia đình bữa ăn no đủ, sung túc, thì “Hiền chỉ ăn rất ít, cô xới cơm cho chồng, gắp thêm cho bố và cho cô,
thưởng thức cái ngon của bữa cơm qua cái mãn nguyện, hả hê của người khác với
đôi chút hãnh diện”[11].
Tuy vậy, mục
đích không thể biện minh cho phương tiện, Hiền đã tận dụng mọi cách thức để kiếm
tiền, bao gồm cả việc ăn cắp, bán hàng lậu, cho nên mọi việc đều không như ý muốn.
Mục đích ban đầu của Hiền là vun vén gia đình, mang lại hạnh phúc cho mọi người,
để không phải chịu cảnh tủi nhục đau đớn nữa; nghịch lý là khi mọi người no đủ,
hạnh phúc, gia đình lại bất hòa tan rã vì đòi chia tài sản, Hiền lao vào anh chị
chồng vì “động đến quyền lợi tức là kẻ thù”. Hiền tâm nguyện khôi phục nghề làm
bánh kẹo truyền thống của bố chồng, một tâm nguyện rất cao cả; nhưng rồi cuối
cùng mải mê kiếm tiền mà không thành được. Mọi dự định tốt đẹp không biết khi
nào rơi vào quên lãng, bởi vì tiền, “tiền nhiều quá, tiền vào như nước lụt, cứ
mê đi vì tiền”. Tiền làm cho người ta mê muội. Tiền làm cho con người ta không
biết sợ bất kì điều gì, dám đạp lên mọi ranh giới và chuẩn mực. Từ việc xem tiền
là một công cụ mang lại hạnh phúc, Hiền đã xem tiền chính là hạnh phúc. Từ việc
dùng tiền như một phương cách để bảo vệ các giá trị quan trọng, Hiền đã xem tiền
là giá trị quan trọng duy nhất. Nói ngắn gọn: Cô đánh mất mình vì tiền. Để đến
khi ở bên kia con dốc cuộc đời, mới thấy hối hận, nhận ra rằng lựa chọn của
mình, trong canh bạc với cuộc đời là thua trắng tay: “Vẫn thua anh ạ, rút cuộc về già là thua. Luật đời mà”.
Trong văn học
Việt Nam giai đoạn sau 1975, kiểu nhân vật nữ đánh mất chính mình như Hiền (Tiền)
không phải là hiếm gặp. Đó là một Lý của Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng) ăn cắp quỹ cơ quan, ngoại tình bỏ trốn. Đó là cô con dâu của ông tướng
Thuấn trong Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp) dùng nhau thai người để nuôi lợn.
Dường như họ đều có một lí do chính đáng để chạy theo tiền. Một Lý rất mực khôn
ngoai mà cũng đầy nông nổi, khéo léo chạy vạy cũng lo cho gia đình chồng, thậm
chí nuôi em trai chồng ăn học, sống bên một người chồng dửng dưng suốt ngày
hoài tưởng quá khứ và không thấu hiểu nỗi niềm của vợ, dường như khát vọng bứt
ra để tìm một hạnh phúc không phải là không thể thông cảm. Cô con dâu của ông
Thuấn, tuy không thể biện minh được, nhưng vẫn làm tròn nghĩa vụ với gia đình
chồng. Nguyên nhân sâu, có lẽ Nguyễn Khải đã đúc kết rồi, đó là do con người
chưa được giáo dục để ứng xử với đồng tiền, họ chạy theo vật chất bằng cảm
tính, bằng cái lợi tức thời. Ngoài ra cũng không thể không nhắc đến một nguyên
nhân rất khách quan: thời kì chuyển giao giá trị đang tác động không ngừng đến
từng con người sống trong thời đại đó. Nguyễn Khải cũng đã khái quát hơn luận
điểm của mình: “Để sống được hàng ngày tất nhiên
phải nhờ vào những "giá trị tức thời". Nhưng sống cho có phẩm hạnh,
có cốt cách nhất định phải dựa vào những "giá trị bền vững". Vấn đề sau chót, có lẽ, đó là cần phải
xác định một ranh giới trong cuộc sống, tìm kiếm một ranh giới sao cho không giới
hạn và bó hẹp quyền tự do của mỗi người, nhưng đủ để giữ họ không đánh mất
chính mình, không quay trở về trạng thái bản năng. Ma Văn Kháng nhận xét rất
đúng đắn: “Cuộc sống bao giờ cũng có những
ranh giới. Ai không phân biệt nổi ranh giới thì kẻ đó chỉ còn trong trạng thái
bản năng”.[12]
Vì lẽ đó, trong quá trình đánh giá
tác phẩm, không nên nhìn nhận kiểu nhân vật đánh mất chính mình dưới đôi mắt của
đạo đức truyền thống. Bởi vì rất hiển nhiên: Đó không phải là những con người sống
trong bối cảnh có một hệ thống giá trị ổn định và bất biến làm quy chuẩn để mọi
người noi theo. Những Hiền (Tiền), những Lý (Mùa lá rụng trong vườn),
khi đặt trong đối sánh như những đối cực với bà cụ trong Nếp nhà hay cô Hiền (Một
người Hà Nôi), cũng hoàn toàn không có ý nghĩa phân loại nhân vật theo chính diện,
phản diện. Họ đối lập nhau trong cách ứng xử, trong giá trị sống họ lựa chọn,
nhưng họ tương đồng với nhau về bản chất: Họ đều là những con người tìm đường,
xác định một chân giá trị trong cuộc sống, bằng cách đưa ra sự lựa chọn, và nhận
về một kết quả sau cùng khi bài toán cuộc đời gần kết thúc. Cho nên, về bản chất,
họ chỉ là một kiểu nhân vật: Kiểu nhân vật tư tưởng, kiểu nhân vật xác định giá
trị. Những nhân vật này xuất hiện trong văn học thời kì sau 1975, chính là những
phép thử để xác định một “ranh giới” (theo cách nói của Ma Văn Kháng) cho xã hội.
Đó là quá trình đi tìm chân lý, đưa ra lựa chọn và liên tục chấp nhận sự phản hồi
từ cuộc sống, để rút ra giá trị sau cùng. Nếu đúng, họ đóng góp một chân lý. Nếu
kết quả sai, họ rút ra được một sự cảm nhận sâu sắc về chân lý, khi cái chân va
đập mạnh mẽ với cái ngụy. Bởi vì cuộc sống vốn phức tạp, cuộc đời đa sự, con
người đa doan, nên những hình mẫu con người được khái quát nên từ cuộc sống đó,
cũng không thể rạch ròi đen – trắng. Đúng như Ma Văn Kháng viết: “Không phức tạp, không gọi là cuộc sống. Bản
chất con người là vậy. Suốt đời con người chuyển động. Ai cũng có một cái đích
lựa chọn để đi tới.Đích đúng, thì hạnh phúc cho mọi người. Còn đích sai, thì
tai họa, chí ít cũng làm phiền xung quanh.”[13]
Tóm lại, từ
những mẩu chuyện trong Chúng tôi và bọn hắn, trong Tiền,
và đặc biệt là qua nhân vật cô em họ Hiền trong Tiền, Nguyễn Khải đã
gióng một hồi chuông cảnh báo về nguy cơ sụp đổ của nếp nhà trước bối cảnh xã hội
mới. Việc cần làm là giáo dục mỗi con người, trang bị cho họ kĩ năng sống cần
thiết để ứng xử và thích nghi trước mọi sự thay đổi của xã hội. Trong quá trình
giáo dục ấy, nếu nếp nhà được gìn giữ tốt (như trường hợp cô Hiền trong Một
người Hà Nội, bà cụ trong Nếp nhà), thì đó sẽ là một điểm tựa
vững chắc để con người giữ mình và ứng xử trong đời sống. Ngược lại, nếu nếp
nhà lung lay, thì nó sẽ hoàn toàn sụp đổ.
Trong hoàn
cảnh xã hội không ngừng bến đổi, nếp nhà cũng phải biến đổi. Sự biến đổi đó có
cả tích cực và tiêu cực. Tiêu cực là nguy cơ đánh mất nếp nhà do văn hóa xã hội
buổi giao thời có phần xuống cấp. Tích cực là bởi sự biến đổi là một lẽ tất yếu.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Mọi vật chất phát triển theo vòng
xoắn ốc. Những gì là thủ cựu, cũ kĩ, không phù hợp thì bị loại trừ, những gì tiến
bộ, tích cực thì được giữ lại, cái cũ dần mất đi, cái mới dần xuất hiện, định
hình. Nếp nhà là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng không phải mọi truyền
thống đều phù hợp với thời đại mới. Đôi lúc con người ta cần cởi mở đón nhận những
cái mới để có được hạnh phúc.
Đó là câu
chuyện của bà Bơ trong Nắng chiều – truyện ngắn ấm áp kết
thúc tập Hà Nội trong mắt tôi. Đó
là câu chuyện bà chị Bơ của nhân vật tôi, một người phụ nữ bảy chục tuổi, đồng
ý lấy chồng ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, người chồng đầu tiên. Đây rõ ràng
là một sự kiện lạ đối với quan niệm truyền thống. Nhân vật tôi ngạc nhiên phải
hét lên: “Sắp xuống lỗ còn gả chồng còn
đi lấy chồng, các bà tính toán rõ hay!”. Bởi sợ xấu hổ: “Thiên hạ họ biết chuyện phải cười đến vỡ bụng”.
Nhưng thật
ra sự tính toán đó của nhân vật bà chị Đại, lại rất hợp tình, hợp lý. Bởi thứ
nhất, bà Bơ đã già, lại không có gia đình, người giả ở một mình nguy hiểm,
không có ai chăm sóc, trông nom. Lẽ thứ hai, là một lẽ không thể chối cãi, bà
Bơ không có gia đình, vì một đời bà sống theo nề nếp truyền thống, quanh quẩn
trong vòng đức hạnh, hy sinh đời mình cho gia đình, cho các em. Các em nên người
thì chị tình duyên chị cũng lỡ làng. Rõ ràng, truyền thống khiến con người ta sống
tốt đẹp, nhưng cũng đẩy con người tao
vào những bi kịch cá nhân khi không thể tìm được hạnh phúc cho bản thân mình.
Cũng giống như bà vợ ông Phúc trong truyện ngắn Chúng tôi và bọn hắn, cả
một đời hy sinh cho gia đình để rồi nhận về những bất hạnh, là do cuộc đời phũ
phàng bội bạc, nhưng cũng là do mỗi bản thân con người quá hy sinh và quá nhu
nhược, không mãnh mẽ đòi quyền lợi cho bản thân mình. Khi đó truyền thống biến
tướng thành định kiến. Con người sống trở thành những cỗ máy, thay vì họ chọn
những giá trị tốt đẹp cho họ, thì họ luôn tự hỏi làm thế nào để mọi người thấy vừa
lòng. Thay vì tự vấn, việc này có khiến tôi hạnh phúc không, thì họ lại luôn
cân nhắc mọi người nghĩ gì về họ nếu họ làm việc đó. Truyền thống biến thành định
kiến, sự hy sinh không còn là một sự lựa chọn mà là một nghĩa vụ, khi con người
không thể lựa chọn điều mình muốn, họ không thể hạnh phúc. Chính vì lẽ đó có thể
thấy, quyết định của chị Đại là một quyết định đúng đắn, tháo vát, có tâm và có
tầm.
Cuộc hôn
nhân ở tuổi bảy mươi đã mang đến cho nhân vật bà Bơ nhiều hạnh phúc. Khí sắc
tươi tỉnh, cuộc đời thú vị. Nhìn cảnh người vợ già chăm sóc cho ông chồng mới
cưới ở lần kết hôn đầu tiên, ai cũng thấy ấm lòng: “Lúc ăn cơm, chị gắp một miếng thịt gà, dùng tay lọc xương ra, lại xé
miếng thịt cho nhỏ, rồi gắp vào bát của chồng. Ông chồng đến là nhõng nhẽo, chỉ
đợi vợ gắp thức ăn mới ăn, cho gì ăn nấy không tự đụng đũa vào bất kì món khác”[14].
Khi bà bơ mổ mắt, ông chồng chăm sóc tận tụy, yêu thương. “Ông kẹp cây gậy trong đùi, nắm lấy bàn tay gầy guộc của vợ, hỏi nhỏ nhẹ:
“Đêm qua bà có ngủ được không?”. Các con riêng của ông cũng tận tình chăm
sóc bà, tất tả ngược xuôi. Gọi bà là “mẹ” và thật lòng coi bà như mẹ. Như vậy đấy,
một sự sắp xếp vén khéo đã đưa những con người xa lạ lại gần với nhau. Và tấm
lòng đôn hậu, tình yêu thương chân thành khiến họ trở thành một gia đình. Nếp
nhà trong bối cảnh thời đại mới có thể được hình thành trong một hoàn cảnh chưa
từng có trước đây trong truyền thống. Xét cho cùng, truyền thống và cách tân
không đối lập nhau, mà biện chứng với nhau. Cách tân để loại bỏ những phần không
còn thích hợp với xã hội, và những phần tốt đẹp còn lại, đến lượt mình lại trở
thành truyền thống. Truyện ngắn Nắng chiều kết lại tập Hà Nội
trong mắt tôi bằng một dư vị ấm áp, thấm đượm tình người, kết lại một
chuỗi những trăn trở suy tư không dứt của một nhà văn có tấm lòng nặng tình với
mảnh đất nghìn năm văn hiến bằng một niềm hy vọng dìu dịu, nhè nhẹ. Đúng như
cái tên đầy sức biểu tượng của thiên truyện ấy, nó mang cái ấm áp dìu dịu làm
người ta nhẹ lòng của cái nắng ban chiều, khi người ta được chứng kiến tình yêu
của bà Bơ, cái hạnh phúc nhè nhẹ của buổi xế chiều của đời người.
2.
Kết luận
1-
Qua tập Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải đã
góp một định nghĩa khá đầy đủ về Nếp nhà của người Việt Nam nói chung và của đất
kinh kì nói riêng. Nếp nhà chính là nét đẹp văn hóa, nếp nhà cách con người
trong gia đình ứng xử với nhau nền nã, yêu thương, tôn trọng, nhún nhường. Nếp
nhà đó không phải ngẫu nhiên có được, mà nó cần được vun đắp, gìn giữ bằng lối
sống của từng thành viên trong gia đình, quan trọng nhất là trong công việc
giao dục con cái. Nếp nhà được gìn giữ, vun đắp bởi những người nội tướng, những
người phụ nữ với trí tuệ sắc sảo, vớ bản lĩnh sống vững vàng. Nếp nhà giúp con
người ta giữ mình giữa bão tố của xã hội, giúp con người ta đứng vững trước mọi
cám dỗ. Nếp nhà là một chìa khóa để con người ta tìm thấy hạnh phúc, bằng cách
dạy cho họ nhận biết đâu là giá trị thức thời, đâu là giá trị bền vững, để từ
đó có cách ứng xử phù hợp, nhân ái, khoan dung và nhân văn.
2-
Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi, nhất
là sau thời kì đổi mới kinh tế, khi các giá trị cũ mất đi, các giá trị mới chưa
định hình thì nếp nhà có nguy cơ mai một. Tiền là một yếu tố đáng lưu ý tạo nên
nguy cơ đó. Bản thân tiền không có lỗi, nhưng con người, do chưa được giáo dục
cách ứng xử với đồng tiền, chỉ chạy theo cái lợi trước mắt một cách bản năng,
nên dần bị tiền làm cho mê muội, đánh mất chính mình. Nguyễn Khải, qua chủ đề nếp
nhà, đã gióng lên một hồi chuông cản báo. Mặt khác, không phải mọi sự thay đổi
đều là tiêu cực, có những thay đổi cần thiết, khi con người ta sống với nhau bằng
tình, nghĩa, thì có thể mang đến hạnh phúc lớn lao cho mỗi người.
Qua chủ đề nếp nhà,
chất triết luận đầy tính trí tuệ của Nguyễn Khải được thể hiện rõ nét. Mỗi truyện
ngắn là sự ghi chép chân thực và sinh động những mốc thời gian khác nhau của một
đời người, soi chiếu hiện thức trên lăng kính đa diện, nhiều chiều, mỗi nhân vật
là một góc nhìn tri nhận hiện thực, mỗi mốc thời gian là một khía cạnh của chân
lý, từ đó nhà văn gửi gắm những tư tưởng sâu sắc đầy trăn trở về thế sự, về cuộc
đời, về con người. Trong đó, nhân vật tôi nổi lên đầy tính tự truyện, đại diện
cho chính tác giả bày tỏ những quan điểm về cuộc sống. Đối với Nguyễn Khải, “Hà Nội
trong mắt tôi” là niềm trăn trở về các giá trị văn hóa, về cách sống của
con người, về triết lý lựa chọn một lẽ sống. Và nếp nhà là một “giá trị bền vững”
mà nhà văn đóng góp cho người đọc như một định hướng để họ chọn một đường đi
trong cuộc đời, một lối đi để tìm đến hạnh phúc.
[1] Nguồn: http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=799&articleId=2957
[2] Nguồn: http://dpi.danang.gov.vn/chi-tiet?articleId=5517
[3] Nguyễn Khải, sđd, trang 21
[4] Nguyễn Khải, sđd, trang 19
[5] Nguyễn Khải, sđd, trang 20
[6] Nguyễn Khải, sđd, trang 78
[7] Nguyễn Khải, sđd, trang 13
[8] Nguyễn Khải, sđd, trang 11
[9] Nguyễn Khải, sđd, trang 72
[10] Nguyễn Khải, sđd, trang
73
[11] Nguyễn Khải, sđd, trang
75
[12] Ma Văn Kháng, Mùa
lá rụng trong vườn, NXB Trẻ, trang 259
[13] Ma Văn Kháng, sđd, trang
324
[14] Nguyễn Khải, sđd, trang
129
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét