Nghệ
thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Kiều thông qua hai đoạn trích “Cảnh ngày
xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
I.
Quan
điểm “thi trung hữu họa” trong việc xây dựng hình ảnh thiên nhiên
Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc họa
nên những bức tranh thiên nhiên sống động, tuyệt mỹ, nhiều sắc thái, điều khiển
ngôn ngữ tài tình đến độ bậc thầy, có thể tái hiện những bức tranh tuyệt
đẹp
vào tâm trí người đọc thông qua ngôn từ nghệ thuật.
Biểu hiện của “thi trung hữu họa” trong
hai đoạn trích:
-
Chọn những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu để
làm bật lên cái hồn của cảnh vật; kết hợp hài hòa giữa bút pháp miêu tả tỉ mỉ,
chi tiết và bút pháp điểm xuyết, chấm phá.
+ Đó có thể là bức tranh mùa xuân tinh
khôi, tràn đầy sức sống:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
+Hay đó cũng có thể là không gian rộng
lớn, bao la, mênh mông, heo hút:
“Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
-
Nắm bắt sự vận động của thiên nhiên, cảnh vật,
những bức tranh thiên nhiên không hề tĩnh tại, vô hồn, mà luôn biến đổi:
+Hai câu thơ: “Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa”: bằng việc xóa đi đường chân trời, tiếp biến màu xanh của
cỏ và màu xanh của trời hòa trộn trong sức sống tươi đẹp tinh khôi của mùa
Xuân, Nguyễn Du như thâu tóm được sự vận động của thiên nhiên, đất trời, của
mùa xuân è
Từng sóng cỏ gợn miên man đến tận chân trời, tạo cảm giác dễ chịu, êm ái. Sự vận
động có nét tương đồng với thơ Hàn Mặc Tử: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
+ Trong đoạn thơ
miêu tả cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, bằng việc sử dụng các cặp từ đối lập “xa
– gần”, “nọ - kia”, “sớm – khuya”, Nguyễn Du đã khắc họa được quá trình mở rộng
chiều kích của không gian và thời gian, không gian bao la, rộng lớn, mênh mông,
bát ngát lại càng như bao la hơn, rộng lớn hơn, mênh mông bát ngát hơn. Thời
gian đằng đẵng, xoay vòng, lại như càng dài ra thêm. Sự mở rộng chiều kích
không gian và thời gian này gắn sự quan sát, cảm nhận của Thúy Kiều è
Không gian, thời gian càng tăng chiều kích, con người càng nhỏ bé, lẻ loi.
II.
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
Nguyễn Du từng viết: “người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”, thơ ca bao giờ cũng là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn
con người, mục đích cuối cùng của thơ bao giờ cũng là một “người thư kí trung
thành của trái tim”, để truyền đạt tư tưởng, tình cảm, kết nối những trái tim è
Thiên nhiên trong thơ không đơn thuần chỉ là cảnh vật, mà đó cũng là tâm hồn,
là tình cảm, là trái tim của mỗi con người.
Biểu hiện của bút pháp tả cảnh ngụ tình
trong hai đoạn trích:
-
Sử dụng những từ láy đa nghĩa, vừa tả sắc
thái thiên nhiên, vừa nói lên tâm trạng con người để tạo hiệu quả “nửa tình nửa
cảnh như chia tấm lòng”:
“Tà
tà bóng ngả về tây
Chị
em thơ thẩn dan tay ra về
Bước
dần theo ngọn tiểu khê
Lần
theo phong cảnh có bề thanh thanh
Nao
nao dòng nước uốn quanh
Nhịp
cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Các từ “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” vừa là sắc thái cảnh vật,
êm đềm, trầm lắng, man mác, vừa là những từ gợi đến nỗi lòng con người: một nỗi
buồn khó nói, gợn nhẹ, mênh mang è Tâm hồn con người phong phú, nhạy cảm trước sự biến
đổi của thiên nhiên, gợn chút nuối tiếc khi buổi du xuân đã kết thúc, ngày xuân
tươi đẹp đang dần qua đi. Đặc biệt từ láy “nao nao” sử dụng rất đắt, nó còn dự
báo cho sự việc sắp tới, khi Kiều chuẩn bị gặp mộ Đạm Tiên, sự việc được xem
như là khởi đầu cho chuỗi truân chuyên định mệnh của cuộc đời Kiều.
-
Các hình ảnh thiên nhiên được nhìn qua đôi mắt
tâm trạng của con người, nên cũng mang nặng tâm trạng:
Trong đoạn trích “Cảnh
ngày xuân”, mở đầu cuộc du xuân thì thiên nhiên tuy thoáng một chút tiếc nuối
vì “Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi”, nhưng cảnh vật hiện lên vẫn tươi
xanh, mơn mởn, tinh khôi, thấm đẫm tâm trạng háo hức của những người trẻ trong
buổi du xuân “Dập dìu tài tử giai nhân/Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Đến
khi tàn cuộc, thì thiên nhiên đượm buồn. Thời gian buổi chiều tà man mác
một nỗi lưu luyến. Hình ảnh thiên nhiên hiện lên nhỏ bé, trầm trầm: “ngọn
tiểu khê”, “dòng nước uốn quanh”, “nhịp cầu nho nhỏ”.
-
Bỏ qua những quy luật bình thường của đời sống
để làm nổi bật lên quy luật của tình cảm:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”
Cảnh “non xa – trăng gần”, đó là sự bố trí cảnh
vật không theo quy luật phối cảnh, nhưng theo điểm nhìn của nhân vật. Bởi vì
trong cái nhìn của nhân vật vào ban đêm, trăng sáng hơn nổi bật hơn, núi nhạt
nhòa hơn, nên dễ có cảm tưởng trăng gần hơn núi. Nhưng quan trọng hơn cả là
trong hoàn cảnh bị giam cầm, cảnh núi non mênh mông hoang tàn khiến Kiều cảm thấy
cô đơn, lạc lõng, chỉ có ánh trăng là người bầu bạn, nên mới có cảm giác “vẻ
non xa tấm trăng gần”.
-
Xây dựng những bức tranh tâm cảnh đa dạng,
nhiều cung bậc, tăng tiến như những đợt sóng tràn, hình ảnh thiên nhiên trở
thành ẩn dụ cho thân phận con người, cho tâm trạng con người:
“Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn
trông ngọn nước mới sa
Hoa
trôi man mác biết là về đâu
Buồn
trông nội cỏ rầu rầu
Chân
mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn
trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm
tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
III.
Tổng
kết
VỀ NỘI DUNG
-
Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương, nhưng dường
như còn là một kiệt tác hội họa, khi Nguyễn Du đã dựng nên những bức tranh
thiên nhiên sinh động, phong phú, có hồn.
“Thơ là thơ, đồng thời là nhạc, là họa, là chạm khắc theo một cách rất riêng” (Sóng Hồng).
-
Thiên nhiên trong Truyện Kiều thấm đẫm tâm trạng
con người, thiên nhiên như một người tri kỉ bầu bạn, thấu hiểu nỗi lòng con người
è
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du, thể hiện tấm lòng cảm thông,
đồng cảm với nhân vật của bậc đại thi hào dân tộc. è Từ đó chúng ta thấy được
giá
trị nhân đạo sâu sắc của Truyện Kiều.
VỀ NGHỆ THUẬT
-
Nguyễn Du đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn nhiều
thủ pháp nghệ thuật trong việc miêu tả thiên nhiên: miêu tả tỉ mỉ, chi
tiết, miêu tả chấm phá, nghệ thuật lấy điểm tả diện…
-
Đặc sắc nhất chính là nghệ thuật sử dụng ngôn từ
vào loại bậc thầy của Nguyễn Du: sử dụng một cách đắc địa ngôn ngữ dân tộc với
những từ láy, những từ gợi tả; sử dụng tinh tế từ Hán Việt để tạo sắc thái
trang trọng, hoài cổ, bàng bạc. Đặc biệt, Nguyễn Du rất tài tình trong việc vận
dụng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả sự vận động của
thiên nhiên, cảnh vật. “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan
Viên).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét