Đề:
Hình tượng đồ vật,
sự vật trong tác phẩm văn học chính là bức thông điệp sâu sắc của người nghệ sĩ
về con người và cuộc đời.
Phân tích hai
trong số các hình tượng đồ vật, sự vật sau để làm rõ nhận định trên: cái bóng
(Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ), những chiếc xe không kính (Bài thơ
về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật), bếp lửa (Bếp lửa, Bằng Việt), chiếc
lược ngà (Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng), ánh trăng (Ánh trăng, Nguyễn
Duy).
THÂN BÀI
I.
Giải
thích
-
Hình tượng là sự phản ánh
hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ
thể, sinh động, điển hình, nhận thứ trực tiếp bằng cảm tính. Hình tượng nghệ
thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng trí tưởng
tượng sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sáng
tạo, sao chép y nguyên những hiện tượng có thật mà là tái hiện có chọn lọc,
sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của người nghệ sĩ.
-
Hình tượng đồ vật, sự vật chính là sự tái hiện
các hiện tượng của thế giới vật chất khách quan vào trong tác phẩm văn học, vừa
như yếu tố phối cảnh, tĩnh vật, vừa thể hiện thế giới nội tâm, tâm hồn của con
người.
èCác
đồ vật, sự vật vô tri vô giác của đời sống khi được nhà văn nhào nặn bằng sự
sáng tạo và bầu máu nóng nhiệt huyết, trở thành những hình tượng giàu chất biểu
tượng, thể hiện những thông điệp sâu sắc về con người và cuộc đời.
II.
Bàn
luận
Nhận định cho rằng:
“Hình tượng đồ vật, sự vật trong tác phẩm văn học chính là bức thông điệp sâu sắc
của người nghệ sĩ về con người và cuộc đời” là hoàn toàn xác đáng.
a.
Sự tồn
tại của hình tượng đồ vật trong tác phẩm văn học là tất yếu:
-
Văn học là tấm gương phản ánh của cuộc sống,
hình tượng văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan,
cho nên mọi yếu tố của hiện thực cuộc sống đều có thể bước vào văn học, bao gồm
cả những sự vật, đồ vật bình dị nhất như một ánh trăng, một bếp lửa… Nếu như
nhà khoa học nhìn đồ vật như một khách thể, từ chối nhập vai nó để có thể ý thức
toàn vẹn đối tượng nghiên cứu, thì nhà nghệ sĩ sẵn sàng làm điều đó, anh ta chắt
lọc tâm hồn, cảm xúc và tư tưởng của mình vào từng đồ vật, sự vật mà anh ta sắp
đặt trong thế giới nghệ thuật của mình.
-
Trong tác phẩm nghệ thuật cái quan trọng không
phải là thể hiện vẻ giống nhau bên ngoài của sự vật, mà là cái ý
nghĩa nội tại mới mẻ do chủ thể sáng tạo đặt vào cho nó, là việc qua nó truyền
đạt được đặc tính của văn hóa, chính trị, đạo đức thời đại, dân tộc nơi nó phát
sinh. Trong thế giới nghệ thuật, đồ vật không bao giờ xuất hiện tình cờ.
Một khi nó được xếp đặt vào đâu, đều cho thấy mối quan hệ cụ thể nào đó, thái độ
nào đó của người sáng tạo trong việc xác định mục đích, vai trò thích hợp của
nó ở chỗ đó.
b.
Hình
tượng đồ vật chính là bức thông điệp về con người:
-
Như vậy, mỗi hình tượng đồ vật xuất hiện trong
tác phẩm của nhà văn đều mang một nội dung tư tưởng rõ rệt. Nội dung đó, trước
hết phải là “một bức thông điệp về
con người”. Vì sao vậy? Bởi con người chính là đối tượng phản ánh trung
tâm của văn học. Marxim Gorki cho rằng: “Văn học là nhân học”. Nghệ thuật phản ánh hiện thực trên một phạm vi hết
sức rộng lớn và đa dạng, nhưng tất cả các sự vật và hiện tượng ấy đều được xét dưới mối quan hệ thẩm mỹ với con người. Nếu các ngành khoa học tìm đến cácẫusự vật
hiện tượng để tìm ra bản chất, quy luật của nó thì nghệ thuật lại quan tâm và
khám phá mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh è Trong tác phẩm văn học, mọi
đồ vật đều chuân tuần về con người, hay nói cách khác, thế giới đồ vật (cả nhân tạo và thiên tạo) đã tạo thành một môi trường
sống tất yếu có mối quan hệ hữu cơ với con người, chúng chính là chiếc chìa
khóa để mở ra cánh cửa khám phá bản chất cũng như tâm hồn con người,
để nhận ra được những buồn, vui, yêu, ghét ẩn khuất trong tâm hồn con người, để
nhận ra những khát vọng bả năng sâu kín cũng như những ước vọng cao cả, hướng
thượng.
(Liên hệ thêm: Không phải ngẫu nhiên mà
trong thế giới nhân vật bao la của mình, đại văn hào Balzac chia làm ba loại:
đàn ông, đàn bà, và những đồ vật xung quanh họ. Đồ vật chính là sợi dây kết nối
gắn bó với các hình tượng con người, chúng không phải là sự sao chép vô hồn từ
hiện thực cuộc sống mà là một sự sáng tạo độc đáo có dụng ý nghệ thuật)
c.
Qua hệ
thống hình tượng đồ vật, nhà văn khơi dậy trong người đọc những nhận thức sâu sắc
về cuộc sống:
-
Đích đến cuối cùng của văn chương chính là cuộc
đời. Tố Hữu cho rằng: “Cuộc đời là điểm khởi đầu và đi tới của văn chương”.
Trang sách đóng lại, cuộc đời thật sự của tác phẩm văn học mới mở ra, khi nó sống
dậy trong tâm trí bạn đọc và đi vào cuộc sống.
-
Cho nên, hệ thống hình tượng đồ vật trong tác phẩm
văn học không chỉ mang giá trị thẩm mỹ, mà trước hết nó thể hiện chức năng nhận
thức, giáo dục của văn học, giúp tác phẩm văn học thật sự trở thành “thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo, thay đổi thế giới xấu xa,
tàn nhẫn, vừa làm lòng người trong sạch hơn, phong phú hơn” (Thạch Lam). Các hình tượng đồ vật gọi
thức trong người đọc những “sự thật ở đời”, những “tiếng lầm than cất ra từ những
kiếp đau khổ kia”, nó giúp người đọc hiểu thêm về thế giới tự nhiên, thế giới
xã hội, và quan trọng nhất, là hiểu rõ chính mình.
-
Để từ đó, mỗi hình tượng văn học nói chung và hình tượng đồ vật nói riêng tiếp
thêm cho người đọc nghị lực sống, sức mạnh để cải tạo cuộc sống, khiến con người
sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.
III.
Chứng
minh
a.
Hình
tượng cái bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
Ø
Cái bóng
là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương
-
Cái bóng là biểu
tượng cho tình yêu của Vũ Nương với chồng. Khi nàng chỉ vào bóng mình mà
nói với con đó là chồng, đó là sự đồng nhất mình với chồng, là sự gắn bó về tâm
hồn. Đó là biểu hiện của tình yêu thương chồng, cảm thấy tâm hồn của hai người
gắn bó như hình với bóng.
-
Cái bóng biểu
tượng cho tình mẫu tử của Vũ Nương với con. Vũ Nương dựng nên hình ảnh một
người cha để tâm hồn con trẻ không tổn thương, không cảm thấy trống vắng.
Ø
Cái bóng
oan nghiệt - kẻ bức tử Vũ Nương
-
Nguồn cơn của cái bóng chính là chiến
tranh. Nếu chiến tranh không nổ ra, gia đình ly tán, sẽ không bao giờ
có sự xuất hiện của cái bóng, và Vũ Nương sẽ không phải chết. Chiến tranh là
đau thương, mất mát, chia lìa, cũng là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến bi kịch
thương tâm khi Vũ Nương.
-
Cái bóng là cái
cớ cho sự ghen tuông vô lý của Trương Sinh, trở thành hung thủ đẩy Vũ Nương vào
đường cùng, vào cái chết. Trương Sinh là một kẻ đa nghi, lại “con nhà hào
phú, không có học”, nghi oan cho vợ thì hồ đồ, bảo thủ không cho vợ cơ hội
thanh minh, không lắng nghe mà chỉ buộc tội. Thói đa nghi, thủ cựu đó là tính
cách của Trương Sinh, nhưng chính tư tưởng phong kiến, “trọng nam,
khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã dung túng cho sự vũ phu, gia
trưởng của hắn. Chính tư tưởng bảo thủ, độc ác của xã hội phong kiến đã cho
phép người đàn ông ngang nhiên chà đạp, khinh thường người phụ nữ và bức tử họ.
Ø
Cái bóng của
sự giải oan và những nuối tiếc muộn màng
-
Sau khi Vũ Nương gieo mình xuống sông Hoàng
Giang tự vẫn, một lần bé Đản trỏ lên cái bóng trên vách nói rằng “Cha Đản lại đến
kia kìa!”, Trương Sinh nhận ra mình đã nghi oan cho vợ, nhưng đã quá muộn.
-
Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra một cái kết với chi
tiết kì ảo, để giải oan cho Vũ Nương. Vũ Nương gặp Phan Lang ở động
Linh Phi, nhờ đó mà nàng được Trương Sinh lập đàn giải oan. Qua đó, kết thúc
truyện thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, làm bật lên ước mơ công bằng của người
phụ nữ và cũng là của chính tác giả Nguyễn Dữ. Tuy kết thúc có hậu nhưng tác phẩm
vẫn mang một âm hưởng bi thương: Vũ Nương chỉ đứng ở giữa dòng cảm tạ rồi
biến mất, chứ không thể gặp lại Trương Sinh nữa. Nàng cũng không thể gặp con,
bé Đản mãi mãi mất mẹ. Gia đình mãi mãi tan vỡ. Thiên chức làm mẹ của Vũ Nương
mãi mãi bị tước đoạt. Ở đây, Sắc màu kì ảo càng làm đậm thêm tính chất hiện
thực của tác phẩm: Những người phụ nữ tốt đẹp như Vũ Nương không thể
tìm thấy hạnh phúc ở đời thực, chỉ có thể tìm được hạnh phúc khi về thế giới
bên kia. Đó là sự thật đau đớn, là một lời tố cáo xã hội phong kiến sâu sắc.
ĐÁNH GIÁ:
-
Qua hình tượng cái bóng, Nguyễn Dữ đã gửi đến
chúng ta bức thông điệp giàu tính nhân văn về phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến: hiền dịu, nết na, giàu đức hy sinh, và quan trọng nhất
là luôn khát khao hạnh phúc.
-
Đồng thời,
hình ảnh cái bóng cũng là tiếng nói tố cáo để ta thấy được sự thật đau đớn
trong xã hội phong kiến: Cái bóng chính
là biểu tượng cho bi kịch của cuộc đời người phụ nữ thời phong kiến, mong manh
đến đau đớn. Vũ Nương chết, vì lời nói ngây thơ của con trẻ. Vũ Nương
chết, vì sự hồ đồ của chồng. Vũ Nương chết, vì chính tình yêu của mình dành cho
chồng, cho con. Vũ Nương chết, vì không thể thoát khỏi cái bóng của mình! Rủi
ro, oan khiên đến với người phụ nữ từ những sự việc nhỏ nhất trong đời sống như
cái bóng, họ không có cách nào để chống đỡ, ngoài lấy cái chết để bảo vệ danh dự
cho bản thân.
b.
Hình
tượng “Ánh trăng” trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Duy
Ø
Ánh trăng
tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, gắn bó với nhân vật trữ
tình từ thuở ấu thơ đến những tháng ngày gian khổ nơi chiến trường. Thời cuộc đổi
thay, con người thay đổi và lãng quên nhưng ánh trăng vẫn tròn đầy không thay đổi. ( 4 khổ thơ đầu)
Ø
Ánh trăng
tượng trưng cho sự thức tỉnh vừa nghiêm khắc vừa bao dung (2 khổ thơ cuối)
ĐÁNH GIÁ:
-
Qua hình tượng ánh trăng, Nguyễn Duy đưa đến
thông điệp về sự ăn năn, thức tỉnh, một trạng thái cao cả, hướng thượng trong
tâm hồn mỗi con người. Sự ăn năn, thức tỉnh chính là kết quả của một quá trình
đấu tranh nội tâm gay gắt nơi mỗi người phải chiến đấu với phần con của mình,
là sự giằng co giữa Thiện và Ác, Vị kỉ và Vị tha, Cao thượng và Thấp hèn, Can đảm
và Hèn nhát… để vươn tới những giá trị chân – thiện – mỹ. Đây là cuộc đấu tranh
dai dẳng trong tâm hồn mỗi người, là lửa thử vàng để làm nên những nhân cách tốt
đẹp.
-
Đồng thời, qua hình tượng ánh trăng, Nguyễn Duy
cũng đã khái quát nên những giá trị chân chính trong cuộc đời. Như Nguyễn Khải
nói: Nói cho cùng, để sống được hàng ngày tất
nhiên phải nhờ vào những "giá trị tức thời". Nhưng sống cho có phẩm hạnh,
có cốt cách nhất định phải dựa vào những "giá trị bền vững". Ánh điện, cửa gương, vật chất cám dỗ,
xét cho cùng chỉ là những giá trị tức thời, rồi sẽ bỏ con người bất kì lúc nào.
Chỉ có ánh trăng, tượng trưng cho nguồn cội, cho quá khứ ân nghĩa thủy chung,
tượng trưng cho bài học đạo lý làm người “uống nước nhớ nguồn”, tượng trưng cho
tấm lòng bao dung, nhân hậu, tượng trưng cho thái độ tự phản tỉnh của mỗi người
trong cuộc đời, mãi mãi không biến đổi, giúp soi sáng con người trên đường đời,
mới thực là giá trị bền vững, để ta sống đẹp, sống đúng với hai tiếng con-người.
IV.
Tổng
kết:
-
Cả hình tượng cái bóng và hình tượng ánh trăng,
dù thuộc hai tác phẩm sáng tác trong thời kì khác nhau, là sản phẩm của hai
phong cách văn học khác nhau, viết về các đề tài rất khác nhau, nhưng lại gặp nhau trong dòng chảy chủ nghĩa nhân văn
cao cả của văn học dân tộc. Dù viết về đề tài gì, ra đời trong hoàn cảnh
này, thì cuối cùng văn học cũng không nằm ngoài mục đích đề cao cái tốt đẹp, đấu
tranh chống lại cái xấu xa, cất lên tiếng nói để đòi quyền sống chính đáng, quyền
sống ý nghĩa cho con người.
ü
Qua hình ảnh
cái bóng, Nguyễn Dữ cất lên hồi chuông tha thiết kêu gọi đấu tranh chống lại xã
hội phong kiến phi nhân bạo tàn để người phụ nữ được hưởng hạnh phúc chính
đáng.
ü
Còn với
hình ảnh ánh trăng, Nguyễn Duy đã thực sự nghiêm khắc trong cuộc chiến với
chính mình nội tại nơi tâm hồn mỗi người, để bản thân vươn đến những giá trị tốt
đẹp.
-
Để làm nên những hình tượng đồ vật thành công,
ngoài yếu tố nội dung tư tưởng sâu sắc, thì thủ pháp nghệ thuật cũng cần được coi trọng:
ü
Hình tượng cái bóng được tạo nên bởi nghệ thuật
tự sự đặc sắc: cái bóng góp phần tạo nên một cốt truyện kịch tính, chặt chẽ, cuốn
hút người đọc.
ü
Hình tượng ánh trăng là sự kết hợp hài hòa giữa
chất trữ tình, chất tự sự và chất triết lý, vừa có sức nặng của tư tưởng vừa dễ
dàng đi vào lòng người.
THẦY TRẦN LÊ DUY
THẦY TRẦN LÊ DUY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét