Thông tin liên lạc

Thứ Hai, 2 tháng 5, 2022

Bài viết | Lạ hoá ngôn từ trong thơ...

Đề bài: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. (Pautopsky)

Nhận định trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về sự “lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca?



Bài làm 1

 

   Một điểm tựa có thể nhấc bổng cả trái đất, một nguyên tử có thể thay đổi sự sống của sinh vật,... Những thứ nhỏ bé lại có thể huyền diệu đến vậy!  Thế còn con chữ trên trang giấy, dù nó nhỏ bé và quen thuộc nhưng có vô vị như ta vẫn tưởng ? Không có thứ nào vô vị chỉ là ta chưa đặt nó vào đúng chỗ. Thật vậy, ngôn từ  tưởng chừng như đã nhàm chán, sử dụng cùng kiệt hàng ngày ấy vậy mà vẫn có thể trở thành những đài từ lấp lánh, nói như Pautopxki: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta nói đến cạn cùng, mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”.

 

   Trước hết, “Những chữ xơ xác nhất mà ta đã nói đến cạn cùng” ý chỉ những câu từ, con chữ ta bắt gặp mỗi ngày, nhìn thấy, sử dụng nó đã quá quen không còn gì thú vị nữa. Song, với tài năng và sức sáng tạo của mình, người nghệ sĩ đã thắp lên cho chúng cuộc đời mới, những chữ tưởng chừng thô ráp “lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”, tức trở nên sống động, mới mẻ hơn nhiều lần. Nói cách khác, ngôn ngữ bình dân ấy đã được “lạ hóa” - hiện ra không phải như ta đã quen biết, hiển nhiên mà như một cái gì mới mẻ, giống như “bình cũ rượu mới” kế thừa cái cũ đồng thời tiếp thu cái mới. Nhận định trên của Pautopxki đã nói đến đặc trưng của thơ, quá trình sáng tạo chắt lọc của nhà thơ biến nó thành con chữ giàu hình tượng, có sức gợi sâu xa, lâu dài trong tâm tưởng người đọc.

 

   Và nếu hội họa được cấu thành từ những đường nét, màu sắc, âm nhạc được cấu thành từ các nốt trầm bổng thì “thơ ca là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh”(Jacobson). Mỗi chữ đều phải “đắt” nhất, thoát khỏi lớp vỏ vô vị, tìm thấy được những vẻ đẹp, ý nghĩa sâu sắc trong nó. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Lê Đạt gọi các nhà thơ là ‘phu chữ”, họ phải dồi dào ý tứ, ưu việt trong chọn lời, với mỗi chữ “hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng và giá trị riêng”(Jacobson) có thế nó mới thực sự được tỏa sáng “lấp lánh”. Há chẳng phải kỳ công hay sao? Sao ta không giữ nguyên như nó vốn là ? Có thể nói, “lạ hóa ngôn từ” không chỉ xuất phát từ nhu cầu đổi mới của bản thân thi sĩ mà còn bắt nguồn từ bản chất của sự sống và nghệ thuật, văn chương nói chung và thơ ca nói riêng phải là một sự sáng tạo không ngừng nghỉ, không dung những cái đã cũ, đã nói nhiều. Chính sự mới lạ, độc đáo ở nghệ thuật mới là “thanh nam châm thu hút mọi thế hệ” (Nguyễn Khải). Mỗi chữ trong thơ phải tinh, phải là sự “nén chặt năng lượng”(Ji-khô-nôp) để rồi “nổ ra như tiếng sét”(Chế Lan Viên). Có thế, ngôn từ mới thật sự “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương”.

 

   Ngôn ngữ thơ bắt nguồn từ ngôn ngữ đời sống, đi cùng với sự phát triển của đời sống là những nét mới mẻ của văn học nghệ thuật. Một chặng đường dài! đánh dấu sự chiến thắng của thơ mới, “Với thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới” nhiều gương mặt đã trở nên tiêu biểu trong phong trào này, trong đó ta không thể nào không nhắc đến Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh) với thi phẩm “Vội vàng” Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam sự tối tân, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”:

 

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

 

Một khát vọng lạ lùng nhưng thật mãnh liệt. Câu thơ ngắn kết hợp với phép điệp “tôi muốn” càng nhấn mạnh sự khát khao của tác giả, “tắt nắng”, “buộc gió” những hành động không tưởng, thi sĩ muốn níu kéo những gam màu tươi vui của cuộc sống, muốn giữ lấy hương thơm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân. Cách dùng từ thật mới, “nắng” - cái xuyên qua kẽ tay lại dùng chính đôi tay “tắt” để níu giữ, “gió” - lướt nhanh, vô hình lại muốn ôm trọn, “buộc”, dẫu biết không thể nhưng vẫn cố gắng, Xuân Diệu quả là một cái tôi đầy bản lĩnh, ngang nhiên, dám khao khát đoạt lấy quyền uy của vũ trụ, điều mà xưa nay con người không dám. Chỉ là chữ “tắt”, chữ “buộc” rất quen thường ngày mà giờ đây khi được “lạ hóa”, đặt trong câu thơ lại “lấp lánh” tỏa ra một sức hút, hương vị độc đáo đến lạ kỳ. Hẳn Xuân Diệu là một người khát sống, khát yêu mới có những hành động đầy táo bạo, ngông cuồng đến thế. Cái tài của Xuân Diệu thật khiến ta nể phục, từ lời nói thô mộc bình thường bấy giờ trở thành ngôn ngữ nghệ thuật, trở thành điểm sáng của cả câu thơ, gợi dậy nơi bạn đọc những cảm xúc mới mẻ, trong ngần. Quả nhiên “Đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không còn thấy câu chữ nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị.”(Ngô Thời Nhậm).

 

   Hơn thế nữa, “Thơ là thơ nhưng đồng thời là họa, là chạm khắc theo một cách riêng”(Sóng Hồng) thơ phải được xây dựng bằng ngôn từ có sức gợi cảm lớn. Với Xuân Diệu, ông chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, ngôn ngữ thơ Xuân Diệu đầy sức gợi cảm:

 

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”

 

Xuân Diệu đón nhận mùa xuân bằng đôi mắt “non tơ”, “biếc rờn”, mọi thứ tràn đầy nhựa sống. Cái đẹp rực rỡ mọi thanh sắc và cả cái ấm áp của mùa xuân “ánh sáng chớp hàng mi”. Chưa bao giờ ánh sáng hiện lên dịu dàng, tình tứ đến thế, tác giả lấy hình ảnh đôi mắt trong trẻo của cô gái để thể hiện ánh sáng mặt trời, mỗi lần nó chớp nhẹ là một lần nó chiếu sáng cả vũ trụ, mỗi ngày trôi qua niềm vui luôn tràn ngập. Quả là một thiên đường nơi trần thế với âm thanh và màu sắc vui tươi, thế mới hiểu sự khát sống, khát yêu của Xuân Diệu là đúng: 

 

                                           “Tôi kẻ đưa răng bấu măṭ trời

                                             Kẻ đựng trái tim trìu máu đất

                                             Hai tay chín móng bám vào đời”

                                                                           (“Hư vô”- Xuân Diệu)

 

Cách cảm nhận của Xuân diệu thật lạ, thật gợi cảm, mọi thứ cứ như đang “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương” làm ta như sống, như đắm mình vào không gian ấy, nhưng lạ nhất phải nói đến “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, khi đọc xưa ta thường thấy thiên nhiên mới là chuẩn mực của con người, con người xuất hiện một cách mờ nhạt, chìm lấp sau thiên nhiên:

 

“Phù dung như diện liễu như mi” (Bạch Cư Dị)

 

hay:

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười học thốt đoan trang”

(Nguyễn Du)

 

Giờ đây Xuân Diệu đã phá bỏ giới hạn ấy, ông khẳng định con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Lần đầu tiên trong văn chương, thật đúng là thơ mới! đem đến cho ta cấu tứ mới, thi liệu mới, nó đã được “lạ hóa” trở nên vô cùng độc đáo, thời gian lúc bấy giờ được chuyển đổi cảm giác một cách thần tình, mới lạ và táo bạo chỉ bằng một từ “ngon” với “đôi môi gần”, mùa xuân ấy như một người tình trinh nguyên, mơn mởn, khiến lòng ta rạo rực, muốn hưởng trọn nàng xuân. “Tháng giêng” từ một khái niệm trừu tượng giờ đây ta có thể cảm nhận bằng cả vị giác lẫn thị giác, Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình, những hình ảnh tưởng chừng như “mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta” lại hiện lên vô cùng quyến rũ, “lấp lánh”. Có thể nói, thơ Xuân Diệu không chỉ hướng theo lối “tả chân”, mà còn huy động giác quan để tái hiện một thế giới khách quan sống động hữu hình của cái vô hình, Việc phát huy tối đa sự cộng hưởng các giác quan như thế góp phần tạo nên chất nhạc mới mẻ, hiện đại. Ngôn ngữ thơ phải giàu tính họa, tính nhạc có thế “những chữ xơ xác” thường ngày mới có thể “lấp lánh”, “kêu giòn”, “tỏa hương”.

 

   Không chỉ vậy, sức sáng tạo cũng là yếu tố hàng đầu làm nên ngôn ngữ thơ ca. Thơ ca luôn cần sự mới mẻ và độc đáo, chính sự mới mẻ độc đáo đó còn làm nên phong cách của nhà thơ. Xét thơ mới, không ai không biết đến cái tên Xuân Diệu. Hệ thống từ vựng thơ Xuân Diệu mới mẻ đến mức ban đầu nhiều người không chấp nhận được, không cảm nhận được. Chính Hoài Thanh cũng cho là: “lời văn Xuân Diệu có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu làm văn như trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc nói võ vẽ tiếng Nam, câu văn tuồng bỡ ngỡ”. Nhưng rồi chính Hoài Thanh cũng khẳng định cái ngô nghê ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người.

 

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

 

Đối với Xuân Diệu ông sử dụng từ ngữ tân kỳ và “rất Tây”, dù đưa nhục thể vào thơ nhưng lại rất tinh tế bằng cách sử dụng những động từ mạnh như “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, và đặc biệt là “cắn”. Tính cao trào hiện lên rất rõ, thể hiện tình cảm sôi nổi, khát khao giao cảm với đời của tác giả càng lúc càng mạnh mẽ. Chưa có ai đưa vào thơ những hành động táo bạo như thế mà vẫn giữ được nét “duyên” cho câu thơ. Vẻ đẹp căng mọng tròn đầy của cuộc sống mơn mởn và tươi nguyên, hấp dẫn như trái xuân hồng, khiến cho tuổi trẻ ngông cuồng muốn đắm say tận cùng,“cắn” để trút tâm hồn mình ra mà cảm nhận vẻ tinh khiết tuyệt đích của mùa xuân, của tuổi trẻ, của cuộc sống. Cuộc đời dù hữu hạn nhưng có lẽ sức sáng tạo của ông là vô hạn, mỗi chữ tưởng chừng như “xơ xác” nhất, kén chọn nhất nhưng qua trái tim, khối óc của ông lại “lấp lánh”, “kêu giòn”, “tỏa hương” hấp dẫn người đọc đến kỳ lạ.

 

   Tất cả những phương diện ngôn từ đều được thi sĩ dùng thuần thục, tinh vi, dám “lạ hóa” ngôn từ truyền tải những ý nghĩ mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ Xuân Diệu là bậc thầy về ngôn ngữ. Ông xứng đáng với danh xưng “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh).

 

  Có thể nói, “lạ hóa”, “không đơn thuần nhằm tạo ra sự tân kỳ mà còn là “khúc xạ của một cách tri nhận mới mẻ về cuộc sống”( TS Hoàng Kim Ngọc).

  Ngẫm, ngôn từ và thơ - mối liên kết bền bỉ. Ngôn từ là chất liệu đầu tiên và cũng là duy nhất làm nên thơ, mỗi nhà thơ có sẽ sáng tạo hay “lạ hóa ngôn từ” theo hướng khác nhau để biến ngôn ngữ toàn dân trở thành ngôn ngữ nghệ thuật “lấp lánh”. Đến khi thơ ca trở lại với con người, với cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt thêm giàu đẹp, sâu sắc, đúng với tâm niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển và giữ gìn “thứ của cải quý báu và vô giá của dân tộc”. Tiếng Việt sao mà đẹp !

 

“Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ

Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn

Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.”

(Lưu Quang Vũ)

 

   Quả thật, lời nhận định của Pautopxki đã để lại nhiều bài học quý báu, đã là nghệ thuật thì đòi hỏi sự kỳ công, sáng tạo, tiếp thu không ngừng nghỉ “Nhà thơ có thể nghĩ tới việc cấy chữ như nhà khoa học cấy gen trong công nghệ sinh học”(Lê Đạt) mỗi chữ đều phải “lấp lánh”. Thơ phải mới, phải lạ nếu không bài thơ như cái xác chữ không hồn, yểu mệnh mà thôi. Đồng thời với mỗi độc giả khi đọc thơ cần thả hồn theo mạch cảm xúc nương theo bề sâu ngôn từ bởi ngôn từ thơ không phải ngôn từ tuyến tính mà là ngôn từ phức hợp, đôi khi cùng một từ có thể diễn đạt nhiều hình ảnh, ý nghĩa, tạo nhiều cách hiểu. Khi có sự hòa hợp đó con chữ mới thực sự được sống một cuộc đời mới, thơ ca mới phát huy hết giá trị của mình.

 

  “Thơ là phong cảnh, là linh hồn, cũng là vận mệnh của mỗi thời đại, thơ như ngọn gió hắt hiu trên mái, như khói bảng lảng từ lò hương, là năm tháng tình nồng, cũng là thời gian thanh mát”(Bạch Lan Mai), mỗi con chữ được “lạ hóa” thoát khỏi kiếp “xơ xác”, mỗi con chữ được “lấp lánh”, “tỏa hương”, “kêu giòn” bay lên ấy là lúc một tâm hồn yêu thơ, yêu tiếng Việt được chắp cánh.

 

TRẦN THỊ TUYẾT VY

11 CHUYÊN VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH ĐHSP TP HCM

NĂM HỌC 2021 – 2022

 


 

Bài làm 2

 

Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: điều gì khiến mỗi vần thơ trong tác phẩm văn học tựa như một viên pha lê đa diện, lấp lánh, trao tặng người đọc biết bao góc nhìn tinh tế. Một dòng thơ sâu chảy tự tâm hồn? Một công trình kiến trúc từ những viên gạch ngôn từ rực rỡ? Để rồi một ngày kia khi tìm đến với những lời nồng nàn, da diết của Pautopsky tôi chợt hiểu rằng viên pha lê đa diện ánh lên tia rực rỡ ấy là những sáng tạo mới mẻ, độc đáo về cách nhìn, là thủ pháp “lạ hóa” ngôn từ tài tình của người nghệ sĩ trong tác phẩm.“Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”.

 

          Theo nhà văn Pautopsky, những chữ trong thơ ca luôn “lấp lánh”, chúng kêu “giòn” và tỏa hương. Chữ từ lâu đã xuất hiện trong đời sống con người, có mặt hàng thiên niên kỷ trước, là tất cả hệ thống kí hiệu dùng để ghi lại lời nói của con người. Kết quả của quá trình tư duy sáng tạo, một bộ phận của hình thức mang nhiều giá trị nội dung đó chính là hình tượng. “Vết sẹo” trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” là một hình tượng vì nó hàm chứa giá trị nội dung sâu sắc: đại diện cho những mất mát mà chiến tranh gây nên trên thân thể và tâm hồn con người. Ở đây, trước khi xuất hiện trong thơ ca, Pautopsky đã gọi chúng là “những chữ xơ xác”. Những con chữ ta dùng quá nhiều trong đời sống hằng ngày, xuất hiện với tần số dày đặc đó là những chữ đã trở nên xơ xác, xơ xác bởi cái việc “nói đến cạn cùng” của chúng ta, chẳng còn ai biết một tầng nghĩa mới ngoài cái nghĩa đã mặc định, con chữ trông đời sống thường nhật dần mai một trông đến thảm hại. Có ai yêu những áng thơ ép khô trong xác chữ vô cảm? Điều gì khiến cho từ xác chữ làm sống dậy hồn chữ? Tính lạ hóa ngôn từ chính là cứu cánh, là cách thức nhà văn “hô biến” ngôn từ trở nên đặc biệt, làm người đọc thấy “quen” mà “lạ”. Quan điểm của Paustopky góp phần khẳng định: Lạ hóa ngôn từ là bản chất của thơ ca, là cứu cánh đưa “những chữ xơ xác” trở nên “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương”. Chính thủ pháp lạ hóa ngôn từ sẽ đưa con chữ trở nên giàu tính hình tượng và ngôn ngữ trong thơ sẽ gợi hình, gợi cảm hơn bao giờ hết.

 

          “Lạ hóa ngôn từ là bản chất của thơ ca, là cứu cánh đưa “những chữ xơ xác” trở nên “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương””. Tại sao chúng ta có thể khẳng định như vậy? Vì, đặc trưng cơ bản nhất của một tác phẩm nghệ thuật là sự sáng tạo. Nếu trên trang thơ mất đi cái tính “lạ hóa” ngôn từ, không có sự khác lạ, mới mẻ thì nó chẳng chẳng khác gì những xác chữ khô khan, nằm cứng đờ trên trang giấy. Nam Cao đã từng thốt lên rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Ở nhà văn, nếu anh không có sự tìm tòi, khám phá, không có một điểm nhìn mới thì trang viết của anh cũng sẽ trở thành một món hàng sản xuất hàng loạt, văn chương sẽ chỉ còn là sự nhai lại nhàm chán, vô vị. Và trạm cuối cùng trên hành trình khẳng định tính đúng đắn quan niệm của nhà văn đại tài Pautopsky đó là người đọc. Người đọc tìm đến văn chương, tìm đến những dòng thơ hay, những dòng thơ dạt dào cảm xúc chính là muốn đắm mình trong vẻ đẹp sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm? Có ai nhớ những vần điệu sáo rỗng, nhạt nhẽo? Một tác phẩm tất yếu phải xuất phát từ sự sáng tạo, phải có được bản chất của thơ ca tính “lạ hóa” ngôn từ, nếu không, mãi mãi tác phẩm sẽ chẳng thể đáp ứng được nhu cầu người đọc và khi ấy tác phẩm sẽ bị đào thải.

 

          Tính “lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca, đưa con chữ trở nên “giàu” hình tượng hơn bao giờ hết. Xuân Diệu đắm mình trong tình yêu. Nguyễn Bính để hồn mình nương náu bến nước, gốc đa, mái đình… còn thi sĩ Huy Cận lại tìm về với những điệu hồn cổ điển. Đọc “Tràng giang”, thấy cảm xúc cứ lan chảy theo nhịp lướt sông đi, trang thơ Huy Cận là tiếng lòng ảo não của nhà thơ cùng đất nước mà nặng buồn sông núi:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

 

          Hoài Thanh gọi Huy Cận là hồn thơ “ảo não” nhất trong các nhà thơ mới phải chăng bởi những vần thơ như vậy. “Củi một cành khô” từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm theo lối lạ hóa ngôn từ. “Củi”? Người xưa dùng hình ảnh cánh bèo để nói lên thân phận chìm nổi của  con người. Huy Cận lại dùng hình ảnh cành củi khô – một chất liệu vừa hiện thực, vừa hiện đại. “Khô” diễn tả sự rơi gãy, là cái mệt mỏi, kiệt quệ, sự thiếu sức sống ở con người. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh cho sự rơi gãy và khô xác. “Lạc”, nghệ thuât nhân hóa chỉ cho sự bơ vơ, chênh vênh giữa dòng đời. Hơn thế nữa, cặp từ đối “một cành” – “mấy dòng” càng gợi cảm giác nhỏ bé, lạc lõng đến tội nghiệp. Hai từ ngữ song hành nhưng đối nhau về ý. “Một cành khô” chỉ là một kiếp người nhỏ bé, yếu ớt nhưng phải nếm trải cảm giác bị bủa vây bởi cái mênh mông, rợn ngợp của “mấy dòng”, là biết bao sóng nước mênh mang và của nỗi sầu vô hạn, chơi vơi không lối thoát. Nhịp thơ bị ngắt nhỏ Củi / một cành khô / lạc mấy dòng đầy lẻ loi càng khiến cảm giác về sự bất định, lạc loài của kiếp người thêm vời vợi, ám ảnh. Tính “lạ hóa” ngôn từ đã cho ta thấy những con chữ thô sơ, mộc mạc trở nên giàu hình tượng hơn bao giờ hết. “Củi một cành khô”, những con chữ “xơ xác”, xuất hiện từ rất lâu, chúng ta “nói đến cạn cùng” trên từng trang truyện cổ tích giờ đây lại hàm chứa nhiều giá trị nội dung đến thế: là những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, là sự cảm thông của tác giả đối với những kiếp người nổi trôi trên dòng đời vô định, cũng chính là con người Việt Nam mất nước lúc bấy giờ.

 

Tính “lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca, “phép màu hô biến” ngôn từ trở nên gợi hình, gợi cảm. Một hình ảnh khác lại càng nhấn mạnh được cái tính thi vị đầy sáng tạo trong nỗi buồn thơ Huy Cận, dễ khiến người ta liên tưởng đến một khung cảnh sâu rộng vô ngần:

 

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;”

         

“Sâu” gợi ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng. “Chót vót” là tính từ khắc họa chiều cao, dường như vô tận, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Cách ghép từ độc đáo, bất ngờ đã tạo ra một câu thơ thú vị. Thông thường tính từ “sâu” sẽ đi chung với từ láy thăm thẳm, còn từ láy “chót vót” sẽ song hành với tính từ cao. Ở đây, nhà thơ đã có sự kết hợp rất tài tình, lược bỏ đi “người bạn đồng hành” để chúng sánh đôi với nhau “sâu chót vót”. Khung cảnh giờ đây không chỉ được mở rộng ra ở độ sâu mà còn được mở rộng ra ở độ cao. Điều này tưởng chừng rất phi lý nhưng lại có lý vì tác giả dường như không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà cái nhìn tâm tưởng như muốn xuyên thấu vào sự thăm thẳm của vũ trụ. Do vậy, cái tôi ấy cảm thấy bơ vơ hơn, càng thấy độ sâu nỗi buồn đang đè nặng trong lòng trước cái vô biên rợn ngợp. Bên cạnh đó, cặp tiểu đối “nắng xuống, trời lên” đem lại một cảm giác chuyển động rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Trời thật ở trên đầu và trời in dưới nước làm chiều cao, bề sâu được nhân đôi. Quá trình đó được hoàn tất bởi “sâu chót vót”, câu thơ mở ra không gian ba chiều. Sự diễn đạt này làm sông nước, đất trời cứ dài mãi ra. Nhịp thơ chậm rãi, lướt đều theo nhịp hai hai ba Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót, kết hợp cùng giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, có sự biến đổi linh hoạt: trầm, bổng và đến da diết, mang đậm nét riêng của hồn thơ Huy Cận. Như một phép màu chỉ dành riêng trên trang văn, tính “lạ hóa” ngôn từ một bước “hô biến” những từ mờ nhạt, bạc màu, “sâu”, “chót vót”, những ngôn ngữ đời sống được sử dụng quen thuộc gần gũi đã khiến ta cảm thấy nhàm chán đến tận cùng trở thành từ ngữ đầy sức gợi hình, gợi cảm. “Sâu chót vót”, từ ngữ gợi ra cái khung cảnh càng rộng, gợi ra khung cảnh càng sâu, gợi ra khung cảnh càng cao và gợi ra cái cảm giác buồn ảo não. Trong khung cảnh rộng lớn, mênh mông như vậy, không có sự sống, không có sự giao hòa, không có sự nối kết, con người càng cô đơn, càng cô quạnh, càng buồn bã, càng cô liêu.

 

Nhận định của nhà văn Pautopsky là đúng đắn, mỗi tác phẩm thơ ca cần hướng về tính “lạ hóa” ngôn từ, bởi “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson), sự sáng tạo ngôn từ trong thi ca sẽ tạc vào dòng chảy văn chương dân tộc một hình hài mới mẻ. Mặt khác, để ra đời một tác phẩm văn học hoàn chỉnh và có thể truyền tải được nội dung đến với người đọc tác phẩm bắt buộc phải có tính hiện thực trong đấy. Một sáng tác muốn trở thành sản phẩm văn phải đáp ứng điều kiện tiên quyết là phản ánh góc cạnh hiện thực nào đó. Sự phản ánh đó đưa hình bóng đời sống lên trang viết và tạo thành mối dây liên kết đầu tiên giữa văn chương và cuộc đời.

 

          Từ nhận định thâm sâu của Pautopsky, ta biết được nhà thơ đại diện cho câu nói trên đều phải là những nhà thơ chân chính, lao động bằng tâm huyết, phải biết tìm tòi, khám phá, có cho mình một điểm nhìn mới trên trang viết ấy vậy thì văn chương của anh mới không là sự nhai lại nhàm chán, vô vị. Huy Cận chính là minh chứng đại diện cho lớp tài văn thực lực, kiến tạo tác phẩm dưới ngòi bút đầy ắp sự sáng tạo và mới mẻ cho thi ca. Mặc khác ở đâu đó vẫn còn những kẻ không lao động bằng chính cái tâm của mình, lấy danh nhà văn nhưng lại sao chép ngòi bút của người khác, hay lại chỉ còn những người quá thờ ơ với văn học, không chịu mở lòng để đón nhận những thông điệp giá trị từ tác phẩm. Điều duy nhất để góp phần hoàn thiện ngọn lửa văn học cháy mãi trong tim người chính là sự cảm thụ từ độc giả. Tác giả và đọc giả phải có điểm chung giao nhau ở cả hai bên “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi trước tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không muốn thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên trên tờ giấy trắng cái dấu hiệu không thể tấy xóa được của mình” (Lalich).

 

“Ai bảo dính vào duyên bút mực – Suốt đời mang lấy kiếp long đong”. Sáng tạo nghệ thuật luôn là thử thách nghiệt ngã và cũng là niềm say mê của muôn đời, muôn người. Hy vọng, theo dòng chảy miên viễn của thời gian, mảnh đất văn chương sẽ càng ngày hút thật nhiều những nguồn lao động chân chính với nghề, những nhà văn trẻ có sức sáng tạo riêng và cốt tủy phải cầm bút vì chính tình cảm nảy sinh trong tâm hồn đối với con người. Mai này nền văn học thế giới có đổi mới thì câu nói của Pautopsky vẫn còn đấy, xanh mãi và thấm nhuần qua bao trang giấy của lớp trẻ.

 

NGUYỄN DIỄM PHƯƠNG ANH

LỚP 11 CHUYÊN VĂN

TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH ĐHSP TP.HCM

 

 

 

 

 

 

 

 



 

 

        

 

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét