Đề bài: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn
cùng, mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại
lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. (Pautopsky)
Nhận định trên gợi cho anh chị suy nghĩ
gì về sự “lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca?
Bài làm 1
Một điểm tựa có thể
nhấc bổng cả trái đất, một nguyên tử có thể thay đổi sự sống của sinh vật,...
Những thứ nhỏ bé lại có thể huyền diệu đến vậy!
Thế còn con chữ trên trang giấy, dù nó nhỏ bé và quen thuộc nhưng có vô
vị như ta vẫn tưởng ? Không có thứ nào vô vị chỉ là ta chưa đặt nó vào đúng
chỗ. Thật vậy, ngôn từ tưởng chừng như
đã nhàm chán, sử dụng cùng kiệt hàng ngày ấy vậy mà vẫn có thể trở thành những
đài từ lấp lánh, nói như Pautopxki: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta nói đến
cạn cùng, mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong
thơ lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”.
Trước hết, “Những
chữ xơ xác nhất mà ta đã nói đến cạn cùng” ý chỉ những câu từ, con chữ ta bắt
gặp mỗi ngày, nhìn thấy, sử dụng nó đã quá quen không còn gì thú vị nữa. Song,
với tài năng và sức sáng tạo của mình, người nghệ sĩ đã thắp lên cho chúng cuộc
đời mới, những chữ tưởng chừng thô ráp “lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa
hương”, tức trở nên sống động, mới mẻ hơn nhiều lần. Nói cách khác, ngôn ngữ
bình dân ấy đã được “lạ hóa” - hiện ra không phải như ta đã quen biết, hiển
nhiên mà như một cái gì mới mẻ, giống như “bình cũ rượu mới” kế thừa cái cũ
đồng thời tiếp thu cái mới. Nhận định trên của Pautopxki đã nói đến đặc trưng
của thơ, quá trình sáng tạo chắt lọc của nhà thơ biến nó thành con chữ giàu
hình tượng, có sức gợi sâu xa, lâu dài trong tâm tưởng người đọc.
Và nếu hội họa được
cấu thành từ những đường nét, màu sắc, âm nhạc được cấu thành từ các nốt trầm
bổng thì “thơ ca là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh”(Jacobson). Mỗi chữ
đều phải “đắt” nhất, thoát khỏi lớp vỏ vô vị, tìm thấy được những vẻ đẹp, ý
nghĩa sâu sắc trong nó. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Lê Đạt gọi các nhà thơ
là ‘phu chữ”, họ phải dồi dào ý tứ, ưu việt trong chọn lời, với mỗi chữ “hình
thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của
hiện thực mà còn có trọng lượng riêng và giá trị riêng”(Jacobson) có thế nó mới
thực sự được tỏa sáng “lấp lánh”. Há chẳng phải kỳ công hay sao? Sao ta không
giữ nguyên như nó vốn là ? Có thể nói, “lạ hóa ngôn từ” không chỉ xuất phát từ
nhu cầu đổi mới của bản thân thi sĩ mà còn bắt nguồn từ bản chất của sự sống và
nghệ thuật, văn chương nói chung và thơ ca nói riêng phải là một sự sáng tạo
không ngừng nghỉ, không dung những cái đã cũ, đã nói nhiều. Chính sự mới lạ,
độc đáo ở nghệ thuật mới là “thanh nam châm thu hút mọi thế hệ” (Nguyễn Khải).
Mỗi chữ trong thơ phải tinh, phải là sự “nén chặt năng lượng”(Ji-khô-nôp) để
rồi “nổ ra như tiếng sét”(Chế Lan Viên). Có thế, ngôn từ mới thật sự “lấp
lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương”.
Ngôn ngữ thơ bắt
nguồn từ ngôn ngữ đời sống, đi cùng với sự phát triển của đời sống là những nét
mới mẻ của văn học nghệ thuật. Một chặng đường dài! đánh dấu sự chiến thắng của
thơ mới, “Với thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới” nhiều
gương mặt đã trở nên tiêu biểu trong phong trào này, trong đó ta không thể nào
không nhắc đến Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh)
với thi phẩm “Vội vàng” Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam sự tối
tân, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non
lặng lẽ này”:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Một khát vọng lạ lùng nhưng thật mãnh liệt. Câu thơ ngắn kết
hợp với phép điệp “tôi muốn” càng nhấn mạnh sự khát khao của tác giả, “tắt
nắng”, “buộc gió” những hành động không tưởng, thi sĩ muốn níu kéo những gam
màu tươi vui của cuộc sống, muốn giữ lấy hương thơm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa
xuân. Cách dùng từ thật mới, “nắng” - cái xuyên qua kẽ tay lại dùng chính đôi
tay “tắt” để níu giữ, “gió” - lướt nhanh, vô hình lại muốn ôm trọn, “buộc”, dẫu
biết không thể nhưng vẫn cố gắng, Xuân Diệu quả là một cái tôi đầy bản lĩnh,
ngang nhiên, dám khao khát đoạt lấy quyền uy của vũ trụ, điều mà xưa nay con
người không dám. Chỉ là chữ “tắt”, chữ “buộc” rất quen thường ngày mà giờ đây
khi được “lạ hóa”, đặt trong câu thơ lại “lấp lánh” tỏa ra một sức hút, hương
vị độc đáo đến lạ kỳ. Hẳn Xuân Diệu là một người khát sống, khát yêu mới có
những hành động đầy táo bạo, ngông cuồng đến thế. Cái tài của Xuân Diệu thật
khiến ta nể phục, từ lời nói thô mộc bình thường bấy giờ trở thành ngôn ngữ
nghệ thuật, trở thành điểm sáng của cả câu thơ, gợi dậy nơi bạn đọc những cảm
xúc mới mẻ, trong ngần. Quả nhiên “Đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không
còn thấy câu chữ nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị.”(Ngô Thời Nhậm).
Hơn thế nữa, “Thơ
là thơ nhưng đồng thời là họa, là chạm khắc theo một cách riêng”(Sóng Hồng) thơ
phải được xây dựng bằng ngôn từ có sức gợi cảm lớn. Với Xuân Diệu, ông chịu ảnh
hưởng của thơ ca phương Tây, chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, ngôn ngữ
thơ Xuân Diệu đầy sức gợi cảm:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi
gần;”
Xuân Diệu đón nhận mùa xuân bằng đôi mắt “non tơ”, “biếc
rờn”, mọi thứ tràn đầy nhựa sống. Cái đẹp rực rỡ mọi thanh sắc và cả cái ấm áp
của mùa xuân “ánh sáng chớp hàng mi”. Chưa bao giờ ánh sáng hiện lên dịu dàng,
tình tứ đến thế, tác giả lấy hình ảnh đôi mắt trong trẻo của cô gái để thể hiện
ánh sáng mặt trời, mỗi lần nó chớp nhẹ là một lần nó chiếu sáng cả vũ trụ, mỗi
ngày trôi qua niềm vui luôn tràn ngập. Quả là một thiên đường nơi trần thế với
âm thanh và màu sắc vui tươi, thế mới hiểu sự khát sống, khát yêu của Xuân Diệu
là đúng:
“Tôi
kẻ đưa răng bấu măṭ trời
Kẻ
đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay
chín móng bám vào đời”
(“Hư vô”- Xuân Diệu)
Cách cảm nhận của Xuân diệu thật lạ, thật gợi cảm, mọi thứ
cứ như đang “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương” làm ta như sống, như đắm mình
vào không gian ấy, nhưng lạ nhất phải nói đến “Tháng giêng ngon như một cặp môi
gần”, khi đọc xưa ta thường thấy thiên nhiên mới là chuẩn mực của con người,
con người xuất hiện một cách mờ nhạt, chìm lấp sau thiên nhiên:
“Phù dung như diện liễu như mi”
(Bạch Cư Dị)
hay:
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở
nang
Hoa cười học thốt đoan trang”
(Nguyễn Du)
Giờ đây Xuân Diệu đã phá bỏ giới hạn ấy, ông khẳng định con
người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Lần đầu tiên trong văn chương, thật đúng là
thơ mới! đem đến cho ta cấu tứ mới, thi liệu mới, nó đã được “lạ hóa” trở nên
vô cùng độc đáo, thời gian lúc bấy giờ được chuyển đổi cảm giác một cách thần
tình, mới lạ và táo bạo chỉ bằng một từ “ngon” với “đôi môi gần”, mùa xuân ấy
như một người tình trinh nguyên, mơn mởn, khiến lòng ta rạo rực, muốn hưởng
trọn nàng xuân. “Tháng giêng” từ một khái niệm trừu tượng giờ đây ta có thể cảm
nhận bằng cả vị giác lẫn thị giác, Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình, những
hình ảnh tưởng chừng như “mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta” lại
hiện lên vô cùng quyến rũ, “lấp lánh”. Có thể nói, thơ Xuân Diệu không chỉ
hướng theo lối “tả chân”, mà còn huy động giác quan để tái hiện một thế giới
khách quan sống động hữu hình của cái vô hình, Việc phát huy tối đa sự cộng
hưởng các giác quan như thế góp phần tạo nên chất nhạc mới mẻ, hiện đại. Ngôn
ngữ thơ phải giàu tính họa, tính nhạc có thế “những chữ xơ xác” thường ngày mới
có thể “lấp lánh”, “kêu giòn”, “tỏa hương”.
Không chỉ vậy, sức
sáng tạo cũng là yếu tố hàng đầu làm nên ngôn ngữ thơ ca. Thơ ca luôn cần sự
mới mẻ và độc đáo, chính sự mới mẻ độc đáo đó còn làm nên phong cách của nhà
thơ. Xét thơ mới, không ai không biết đến cái tên Xuân Diệu. Hệ thống từ vựng
thơ Xuân Diệu mới mẻ đến mức ban đầu nhiều người không chấp nhận được, không
cảm nhận được. Chính Hoài Thanh cũng cho là: “lời văn Xuân Diệu có vẻ chơi vơi,
Xuân Diệu làm văn như trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc nói võ vẽ tiếng
Nam, câu văn tuồng bỡ ngỡ”. Nhưng rồi chính Hoài Thanh cũng khẳng định cái ngô
nghê ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
…
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào
ngươi!”
Đối với Xuân Diệu ông sử dụng từ ngữ tân kỳ và “rất Tây”, dù
đưa nhục thể vào thơ nhưng lại rất tinh tế bằng cách sử dụng những động từ mạnh
như “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, và đặc biệt là “cắn”. Tính cao trào
hiện lên rất rõ, thể hiện tình cảm sôi nổi, khát khao giao cảm với đời của tác
giả càng lúc càng mạnh mẽ. Chưa có ai đưa vào thơ những hành động táo bạo như
thế mà vẫn giữ được nét “duyên” cho câu thơ. Vẻ đẹp căng mọng tròn đầy của cuộc
sống mơn mởn và tươi nguyên, hấp dẫn như trái xuân hồng, khiến cho tuổi trẻ
ngông cuồng muốn đắm say tận cùng,“cắn” để trút tâm hồn mình ra mà cảm nhận vẻ
tinh khiết tuyệt đích của mùa xuân, của tuổi trẻ, của cuộc sống. Cuộc đời dù
hữu hạn nhưng có lẽ sức sáng tạo của ông là vô hạn, mỗi chữ tưởng chừng như “xơ
xác” nhất, kén chọn nhất nhưng qua trái tim, khối óc của ông lại “lấp lánh”,
“kêu giòn”, “tỏa hương” hấp dẫn người đọc đến kỳ lạ.
Tất cả những phương
diện ngôn từ đều được thi sĩ dùng thuần thục, tinh vi, dám “lạ hóa” ngôn từ
truyền tải những ý nghĩ mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ Xuân
Diệu là bậc thầy về ngôn ngữ. Ông xứng đáng với danh xưng “nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh).
Có thể nói, “lạ
hóa”, “không đơn thuần nhằm tạo ra sự tân kỳ mà còn là “khúc xạ của một cách
tri nhận mới mẻ về cuộc sống”( TS Hoàng Kim Ngọc).
Ngẫm, ngôn từ và thơ
- mối liên kết bền bỉ. Ngôn từ là chất liệu đầu tiên và cũng là duy nhất làm
nên thơ, mỗi nhà thơ có sẽ sáng tạo hay “lạ hóa ngôn từ” theo hướng khác nhau
để biến ngôn ngữ toàn dân trở thành ngôn ngữ nghệ thuật “lấp lánh”. Đến khi thơ
ca trở lại với con người, với cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt thêm
giàu đẹp, sâu sắc, đúng với tâm niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển và giữ
gìn “thứ của cải quý báu và vô giá của dân tộc”. Tiếng Việt sao mà đẹp !
“Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.”
(Lưu Quang Vũ)
Quả thật, lời nhận
định của Pautopxki đã để lại nhiều bài học quý báu, đã là nghệ thuật thì đòi
hỏi sự kỳ công, sáng tạo, tiếp thu không ngừng nghỉ “Nhà thơ có thể nghĩ tới
việc cấy chữ như nhà khoa học cấy gen trong công nghệ sinh học”(Lê Đạt) mỗi chữ
đều phải “lấp lánh”. Thơ phải mới, phải lạ nếu không bài thơ như cái xác chữ
không hồn, yểu mệnh mà thôi. Đồng thời với mỗi độc giả khi đọc thơ cần thả hồn
theo mạch cảm xúc nương theo bề sâu ngôn từ bởi ngôn từ thơ không phải ngôn từ
tuyến tính mà là ngôn từ phức hợp, đôi khi cùng một từ có thể diễn đạt nhiều
hình ảnh, ý nghĩa, tạo nhiều cách hiểu. Khi có sự hòa hợp đó con chữ mới thực
sự được sống một cuộc đời mới, thơ ca mới phát huy hết giá trị của mình.
“Thơ là phong cảnh,
là linh hồn, cũng là vận mệnh của mỗi thời đại, thơ như ngọn gió hắt hiu trên
mái, như khói bảng lảng từ lò hương, là năm tháng tình nồng, cũng là thời gian
thanh mát”(Bạch Lan Mai), mỗi con chữ được “lạ hóa” thoát khỏi kiếp “xơ xác”,
mỗi con chữ được “lấp lánh”, “tỏa hương”, “kêu giòn” bay lên ấy là lúc một tâm
hồn yêu thơ, yêu tiếng Việt được chắp cánh.
TRẦN THỊ TUYẾT VY
11 CHUYÊN VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC
HÀNH ĐHSP TP HCM
NĂM HỌC 2021 – 2022
Bài làm 2
Đã
bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: điều gì khiến mỗi vần thơ trong tác phẩm văn học
tựa như một viên pha lê đa diện, lấp lánh, trao tặng người đọc biết bao góc
nhìn tinh tế. Một dòng thơ sâu chảy tự tâm hồn? Một công trình kiến trúc từ những
viên gạch ngôn từ rực rỡ? Để rồi một ngày kia khi tìm đến với những lời nồng
nàn, da diết của Pautopsky tôi chợt hiểu rằng viên pha lê đa diện ánh lên tia rực
rỡ ấy là những sáng tạo mới mẻ, độc đáo về cách nhìn, là thủ pháp “lạ hóa” ngôn
từ tài tình của người nghệ sĩ trong tác phẩm.“Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta
đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy
trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”.
Theo nhà văn Pautopsky, những chữ
trong thơ ca luôn “lấp lánh”, chúng kêu “giòn” và tỏa hương. Chữ từ lâu đã xuất
hiện trong đời sống con người, có mặt hàng thiên niên kỷ trước, là tất cả hệ thống
kí hiệu dùng để ghi lại lời nói của con người. Kết quả của quá trình tư duy
sáng tạo, một bộ phận của hình thức mang nhiều giá trị nội dung đó chính là
hình tượng. “Vết sẹo” trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” là một hình tượng vì nó
hàm chứa giá trị nội dung sâu sắc: đại diện cho những mất mát mà chiến tranh
gây nên trên thân thể và tâm hồn con người. Ở đây, trước khi xuất hiện trong
thơ ca, Pautopsky đã gọi chúng là “những chữ xơ xác”. Những con chữ ta dùng quá
nhiều trong đời sống hằng ngày, xuất hiện với tần số dày đặc đó là những chữ đã
trở nên xơ xác, xơ xác bởi cái việc “nói đến cạn cùng” của chúng ta, chẳng còn
ai biết một tầng nghĩa mới ngoài cái nghĩa đã mặc định, con chữ trông đời sống
thường nhật dần mai một trông đến thảm hại. Có ai yêu những áng thơ ép khô
trong xác chữ vô cảm? Điều gì khiến cho từ xác chữ làm sống dậy hồn chữ? Tính lạ
hóa ngôn từ chính là cứu cánh, là cách thức nhà văn “hô biến” ngôn từ trở nên đặc
biệt, làm người đọc thấy “quen” mà “lạ”. Quan điểm của Paustopky góp phần khẳng
định: Lạ hóa ngôn từ là bản chất của thơ ca, là cứu cánh đưa “những chữ xơ xác”
trở nên “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương”. Chính thủ pháp lạ hóa ngôn từ sẽ
đưa con chữ trở nên giàu tính hình tượng và ngôn ngữ trong thơ sẽ gợi hình, gợi
cảm hơn bao giờ hết.
“Lạ hóa ngôn từ là bản chất của thơ
ca, là cứu cánh đưa “những chữ xơ xác” trở nên “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa
hương””. Tại sao chúng ta có thể khẳng định như vậy? Vì, đặc trưng cơ bản nhất
của một tác phẩm nghệ thuật là sự sáng tạo. Nếu trên trang thơ mất đi cái tính
“lạ hóa” ngôn từ, không có sự khác lạ, mới mẻ thì nó chẳng chẳng khác gì những
xác chữ khô khan, nằm cứng đờ trên trang giấy. Nam Cao đã từng thốt lên rằng:
“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Ở nhà văn, nếu anh
không có sự tìm tòi, khám phá, không có một điểm nhìn mới thì trang viết của
anh cũng sẽ trở thành một món hàng sản xuất hàng loạt, văn chương sẽ chỉ còn là
sự nhai lại nhàm chán, vô vị. Và trạm cuối cùng trên hành trình khẳng định tính
đúng đắn quan niệm của nhà văn đại tài Pautopsky đó là người đọc. Người đọc tìm
đến văn chương, tìm đến những dòng thơ hay, những dòng thơ dạt dào cảm xúc
chính là muốn đắm mình trong vẻ đẹp sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ,
quen nhàm? Có ai nhớ những vần điệu sáo rỗng, nhạt nhẽo? Một tác phẩm tất yếu
phải xuất phát từ sự sáng tạo, phải có được bản chất của thơ ca tính “lạ hóa”
ngôn từ, nếu không, mãi mãi tác phẩm sẽ chẳng thể đáp ứng được nhu cầu người đọc
và khi ấy tác phẩm sẽ bị đào thải.
Tính “lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca, đưa
con chữ trở nên “giàu” hình tượng hơn bao giờ hết. Xuân Diệu đắm mình trong
tình yêu. Nguyễn Bính để hồn mình nương náu bến nước, gốc đa, mái đình… còn thi
sĩ Huy Cận lại tìm về với những điệu hồn cổ điển. Đọc “Tràng giang”, thấy cảm
xúc cứ lan chảy theo nhịp lướt sông đi, trang thơ Huy Cận là tiếng lòng ảo não
của nhà thơ cùng đất nước mà nặng buồn sông núi:
“Củi một cành khô
lạc mấy dòng.”
Hoài Thanh gọi Huy Cận là hồn thơ “ảo
não” nhất trong các nhà thơ mới phải chăng bởi những vần thơ như vậy. “Củi một
cành khô” từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm theo lối lạ hóa ngôn từ. “Củi”? Người
xưa dùng hình ảnh cánh bèo để nói lên thân phận chìm nổi của con người. Huy Cận lại dùng hình ảnh cành củi
khô – một chất liệu vừa hiện thực, vừa hiện đại. “Khô” diễn tả sự rơi gãy, là
cái mệt mỏi, kiệt quệ, sự thiếu sức sống ở con người. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một
cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh cho sự rơi gãy và khô xác. “Lạc”,
nghệ thuât nhân hóa chỉ cho sự bơ vơ, chênh vênh giữa dòng đời. Hơn thế nữa, cặp
từ đối “một cành” – “mấy dòng” càng gợi cảm giác nhỏ bé, lạc lõng đến tội nghiệp.
Hai từ ngữ song hành nhưng đối nhau về ý. “Một cành khô” chỉ là một kiếp người
nhỏ bé, yếu ớt nhưng phải nếm trải cảm giác bị bủa vây bởi cái mênh mông, rợn
ngợp của “mấy dòng”, là biết bao sóng nước mênh mang và của nỗi sầu vô hạn,
chơi vơi không lối thoát. Nhịp thơ bị ngắt nhỏ Củi / một cành khô / lạc mấy
dòng đầy lẻ loi càng khiến cảm giác về sự bất định, lạc loài của kiếp người
thêm vời vợi, ám ảnh. Tính “lạ hóa” ngôn từ đã cho ta thấy những con chữ thô
sơ, mộc mạc trở nên giàu hình tượng hơn bao giờ hết. “Củi một cành khô”, những
con chữ “xơ xác”, xuất hiện từ rất lâu, chúng ta “nói đến cạn cùng” trên từng
trang truyện cổ tích giờ đây lại hàm chứa nhiều giá trị nội dung đến thế: là những
nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh
đau thương của đất nước, là sự cảm thông của tác giả đối với những kiếp người nổi
trôi trên dòng đời vô định, cũng chính là con người Việt Nam mất nước lúc bấy
giờ.
Tính
“lạ hóa” ngôn từ trong thơ ca, “phép màu hô biến” ngôn từ trở nên gợi hình, gợi
cảm. Một hình ảnh khác lại càng nhấn mạnh được cái tính thi vị đầy sáng tạo
trong nỗi buồn thơ Huy Cận, dễ khiến người ta liên tưởng đến một khung cảnh sâu
rộng vô ngần:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;”
“Sâu”
gợi ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng. “Chót vót” là tính từ khắc họa chiều
cao, dường như vô tận, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Cách ghép từ độc
đáo, bất ngờ đã tạo ra một câu thơ thú vị. Thông thường tính từ “sâu” sẽ đi
chung với từ láy thăm thẳm, còn từ láy “chót vót” sẽ song hành với tính từ cao.
Ở đây, nhà thơ đã có sự kết hợp rất tài tình, lược bỏ đi “người bạn đồng hành”
để chúng sánh đôi với nhau “sâu chót vót”. Khung cảnh giờ đây không chỉ được mở
rộng ra ở độ sâu mà còn được mở rộng ra ở độ cao. Điều này tưởng chừng rất phi
lý nhưng lại có lý vì tác giả dường như không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh
trời mà cái nhìn tâm tưởng như muốn xuyên thấu vào sự thăm thẳm của vũ trụ. Do
vậy, cái tôi ấy cảm thấy bơ vơ hơn, càng thấy độ sâu nỗi buồn đang đè nặng
trong lòng trước cái vô biên rợn ngợp. Bên cạnh đó, cặp tiểu đối “nắng xuống,
trời lên” đem lại một cảm giác chuyển động rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên
đến đó. Trời thật ở trên đầu và trời in dưới nước làm chiều cao, bề sâu được
nhân đôi. Quá trình đó được hoàn tất bởi “sâu chót vót”, câu thơ mở ra không
gian ba chiều. Sự diễn đạt này làm sông nước, đất trời cứ dài mãi ra. Nhịp thơ
chậm rãi, lướt đều theo nhịp hai hai ba Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót, kết
hợp cùng giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, có sự biến đổi linh hoạt: trầm, bổng
và đến da diết, mang đậm nét riêng của hồn thơ Huy Cận. Như một phép màu chỉ
dành riêng trên trang văn, tính “lạ hóa” ngôn từ một bước “hô biến” những từ mờ
nhạt, bạc màu, “sâu”, “chót vót”, những ngôn ngữ đời sống được sử dụng quen thuộc
gần gũi đã khiến ta cảm thấy nhàm chán đến tận cùng trở thành từ ngữ đầy sức gợi
hình, gợi cảm. “Sâu chót vót”, từ ngữ gợi ra cái khung cảnh càng rộng, gợi ra khung
cảnh càng sâu, gợi ra khung cảnh càng cao và gợi ra cái cảm giác buồn ảo não.
Trong khung cảnh rộng lớn, mênh mông như vậy, không có sự sống, không có sự
giao hòa, không có sự nối kết, con người càng cô đơn, càng cô quạnh, càng buồn
bã, càng cô liêu.
Nhận
định của nhà văn Pautopsky là đúng đắn, mỗi tác phẩm thơ ca cần hướng về tính
“lạ hóa” ngôn từ, bởi “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson),
sự sáng tạo ngôn từ trong thi ca sẽ tạc vào dòng chảy văn chương dân tộc một
hình hài mới mẻ. Mặt khác, để ra đời một tác phẩm văn học hoàn chỉnh và có thể
truyền tải được nội dung đến với người đọc tác phẩm bắt buộc phải có tính hiện
thực trong đấy. Một sáng tác muốn trở thành sản phẩm văn phải đáp ứng điều kiện
tiên quyết là phản ánh góc cạnh hiện thực nào đó. Sự phản ánh đó đưa hình bóng
đời sống lên trang viết và tạo thành mối dây liên kết đầu tiên giữa văn chương
và cuộc đời.
Từ nhận định thâm sâu của Pautopsky,
ta biết được nhà thơ đại diện cho câu nói trên đều phải là những nhà thơ chân chính,
lao động bằng tâm huyết, phải biết tìm tòi, khám phá, có cho mình một điểm nhìn
mới trên trang viết ấy vậy thì văn chương của anh mới không là sự nhai lại nhàm
chán, vô vị. Huy Cận chính là minh chứng đại diện cho lớp tài văn thực lực, kiến
tạo tác phẩm dưới ngòi bút đầy ắp sự sáng tạo và mới mẻ cho thi ca. Mặc khác ở
đâu đó vẫn còn những kẻ không lao động bằng chính cái tâm của mình, lấy danh
nhà văn nhưng lại sao chép ngòi bút của người khác, hay lại chỉ còn những người
quá thờ ơ với văn học, không chịu mở lòng để đón nhận những thông điệp giá trị
từ tác phẩm. Điều duy nhất để góp phần hoàn thiện ngọn lửa văn học cháy mãi
trong tim người chính là sự cảm thụ từ độc giả. Tác giả và đọc giả phải có điểm
chung giao nhau ở cả hai bên “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà
văn khi nhà văn ngồi trước tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không
muốn thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên trên tờ giấy trắng cái dấu
hiệu không thể tấy xóa được của mình” (Lalich).
“Ai
bảo dính vào duyên bút mực – Suốt đời mang lấy kiếp long đong”. Sáng tạo nghệ
thuật luôn là thử thách nghiệt ngã và cũng là niềm say mê của muôn đời, muôn
người. Hy vọng, theo dòng chảy miên viễn của thời gian, mảnh đất văn chương sẽ
càng ngày hút thật nhiều những nguồn lao động chân chính với nghề, những nhà
văn trẻ có sức sáng tạo riêng và cốt tủy phải cầm bút vì chính tình cảm nảy
sinh trong tâm hồn đối với con người. Mai này nền văn học thế giới có đổi mới
thì câu nói của Pautopsky vẫn còn đấy, xanh mãi và thấm nhuần qua bao trang giấy
của lớp trẻ.
NGUYỄN DIỄM PHƯƠNG ANH
LỚP 11 CHUYÊN VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH ĐHSP TP.HCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét