Thông tin liên lạc

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2022

Bài viết | Sức mạnh kết nối của văn chương

 



Đề bài:

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư chia sẻ: 

 

Tôi bắt đầu tin văn chương cũng có lửa, làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên; văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc đảo người thành một khối; văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ… 

 

Từ ý tưởng trên, anh (chị) hãy viết bài văn với chủ đề: sức mạnh kết nối của văn chương.

 

Bài làm

 

     Trong bối cảnh ngày nay, khi ngày càng nhiều các lĩnh vực phát triển: âm nhạc ngày càng độc đáo, hội họa ngày càng thu hút, liệu văn chương có trở nên nhỏ bé và mất đi chỗ đứng của mình? Tôi cho là không, bởi từ cổ chí kim văn chương đã đồng hành cùng con người, vai trò, sức mạnh của nó đã được rất nhiều người khẳng định. Nhà văn hiện đại Nguyễn Ngọc Tư cũng từng nói: “Tôi bắt đầu tin văn chương cũng có lửa, làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên; văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc đảo người thành một khối; văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ…”. Văn chương có sức mạnh kì diệu, không chỉ nổ ra như tiếng sét rồi biến mất mà còn có “sức mạnh kết nối”.

 

     Lời nhận định của Nguyễn Ngọc Tư đã gợi nên cho chúng ta những băn khoăn về vai trò của văn chương đối với con người. Hình ảnh “lửa” tượng trưng cho sức nóng, lửa có khả năng làm nóng chảy những khối kim loại dù là thô ráp, rắn chắc nhất, nhà văn đã ví văn chương như “lửa” còn tâm hồn, suy nghĩ của con người là “bức tường thép” mà con người “tự dựng nên”, ý nói văn chương có sức mạnh lớn, khả năng làm tan chảy những trái tim đang cằn cỗi vì bao bộn bề cuộc sống, giúp người đọc “kết nối” với trái tim mình. Đồng thời, văn chương cũng là “băng” “gắn kết những ốc đảo người thành một khối” giúp “kết nối” con người gần nhau, hòa thành một tập thể. Không chỉ mỗi “lửa”, “băng” mà còn là “nước”, “dịu dàng” từ con chữ nhưng những giá trị, bài học mà nó mang đến lại “mãnh liệt” - rõ ràng, rành mạch có khả năng “vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ…” vượt qua những giới hạn trong cuộc sống, kết nối con người với mọi thời đại. Như vậy, văn chương không có nghĩa là giữ nó “để riêng tây” (Xuân Diệu) mà còn có những chức năng vượt trội, “sức mạnh kết nối”- phá tan xiềng xích để chạm vào trái tim của người đọc, gắn kết nhân loại.

 

     Với những ai say mê văn chương hẳn cũng không khó để lý giải vì sao nó lại chứa đựng “sức mạnh kết nối”. Văn học là “cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống” nó đáp ứng nhu cầu muốn tìm tòi, khám phá thế giới của con người, song nó không sao chép nguyên bản từ cuộc sống mà là sự kết hợp giữ yếu tố khách quan (hiện thực cuộc sống) và yếu tố chủ quan (tình cảm người viết), tác giả gửi vào đó những bài học sâu sắc, tình cảm chân thành, từ đó tác phẩm văn học mới có sức hút neo lại trong lòng trái tim bạn đọc, thắp lên ngọn lửa hướng thiện và tạo sự “kết nối”, kết nối tri thức, sự hiểu biết giữa nhà văn và bạn đọc để cùng nhau hình dung về thế giới bên ngoài, nói như Secnuxepki “Những kết luận khoa học như những thỏi vàng chỉ lưu hành trong phạm vi nhỏ hẹp, còn tri thức từ các tác phẩm văn học như những đồng tiền nhỏ dễ dàng lưu thông, len lỏi đến với mọi người”. Văn chương đã kết nối con người với trái tim mình, kết nối tình cảm con người với con người, kết nối mọi thời đại, xóa nhòa đi những giới hạn.

 

     Tìm về văn, con người tìm về trái tim mình. Hiện thực khốc liệt đã khiến bao trái tim chai sạn, khiến cho bao người phải tự dựng lên “bức tường thép”. Ấy vậy khi đọc, thâm nhập vào tác phẩm văn học, nó đã tưới mát cho trái tim và tâm hồn già cỗi.  Văn chương đã tìm đến những nơi sâu kín nhất, thấy những “hạt ngọc ẩn giấu” (Nguyễn Minh Châu), làm tan chảy họ, “mở rộng khả năng của tâm hồn, làm cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn nhiều hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe” (Nguyễn Đình Thi). [t1] Thật vậy, đọc những vần thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tiếng sóng như thôi thúc từng hồi, vỗ vào lòng, vào trái tim của người tìm đến văn chương:

 “Dữ dội và dịu êm

  Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Xuân Quỳnh đã diễn tả một trạng thái thái khác thường, có phần khó hiểu và phức tạp. Nhà thơ đã sử dụng những cặp từ đối chọi, Sóng được tả “dữ dội”- “dịu êm”, “ồn ào” - “lặng lẽ”, cũng là thể hiện sự thất thường, cảm giác mâu thuẫn trong trái tim của người phụ nữ trong tình yêu. Tình yêu là sự kết hợp hài hòa, thống nhất của những mâu thuẫn ấy, chúng đối nghịch mà chuyển hóa qua lại. Hình tượng Sóng và Em là hai hình tượng song hành và đồng điệu, Sóng là Em và Em cũng là Sóng. Khi cảm thấy mình khó hiểu, họ lại rất khao khát đi tìm sự thấu hiểu nhưng nếu lòng sông an toàn mà chật hẹp không hiểu được Sóng thì Sóng sẵn sàng ra đi, từ bỏ sông, từ bỏ không gian tù túng, bó buộc để tìm ra “tận bể” lớn với bao điều mới mẻ, để được cảm thông, thấu hiểu. Thông qua con sóng, tác giả muốn nhấn mạnh khát vọng tìm đến tình yêu, tìm đến sự thấu hiểu của người phụ nữ. Người phụ nữ trong thơ của Xuân Quỳnh thật phóng khoáng, dám từ bỏ những thứ không thuộc về mình, dám sống là chính mình. Đó cũng chính là thông điệp mà thi sĩ gửi đến bạn đọc - hãy dám vươn tới những hạnh phúc, những điều tốt đẹp, hãy để trái tim chỉ đường. Đọc những câu thơ, người đọc dường như cảm thấy mình được thôi thúc, thổn thức, muốn phá bỏ “bức tường thép” kia, muốn lần nữa “kết nối”, lắng nghe trái tim mình. 

 

     Xuân Quỳnh còn cho ta thấy tình yêu dẫu khó giải thích nhưng vẫn khiến con người ước ao:

“Ôi con sóng ngày xưa

                                                         Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

 

Dù là “ngày xưa” hay “ngày sau” tác giả khẳng định “vẫn thế”, Sóng vĩnh cửu và tình yêu mãi như vậy, vẫn “dữ dội” vẫn “dịu êm”, vẫn muôn đời Sóng dám tìm ra “tận bể”. Thi sĩ mang đến cho độc giả thứ tình yêu mãnh liệt đến thời gian cũng không thể bào mòn, xoay chuyển. Khát vọng tình yêu làm “bồi hồi” trong trái tim, sự bồi hồi ấy là sự da diết, mong ngóng, chờ đợi, là xúc cảm vô cùng tuyệt vời. Tình yêu dường như mạnh mẽ hơn trong lồng ngực người trẻ nhưng cũng mang lại điều kì diệu cho độ tuổi đã già - sự trẻ trung, khiến con người tràn đầy nhựa sống. Những vần thơ một lần nữa cho độc giả phập phồng với niềm khao khát có được hạnh phúc, xâm nhập tim ta tự bao giờ, giúp ta lắng nghe, “kết nối” đến nơi sâu thẳm nhất trong tim, muốn lần nữa “đón lấy mọi vang động của cuộc đời”(Nam Cao). Thật vậy, Xuân Quỳnh - “Nữ hoàng của thơ tình yêu” đã khiến cho những con người dù lạc hậu hay tự dựng lên “bức tường thép” cũng phải “tan chảy”, chiêm nghiệm được vị ngọt, điều kì diệu của tình yêu.

 

     Chưa dừng ở đó, văn chương còn “kết nối”, “gắn những ốc đảo người thành một khối”. “Văn học là nhân học” (M.Gorki), nó ra đời để truyền tải tình thương, gìn giữ những giá trị tình thương của con người, mang con người lại với nhau để thêm yêu thương. Từ xa xưa trong văn học dân gian, ông cha ta đã dạy cần yêu người, yêu đời:

 

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng” 

Và: 

“Thương người như thể thương thân”

 

không chỉ vậy, trong truyền thuyết “Con rồng cháu tiên” lý giải nguồn gốc dân tộc ta, mẹ Âu cơ sinh được bọc trăm trứng và sau này 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên non, Lạc Long Quân đã dặn Âu Cơ rằng khi gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, điều đó đã nhấn mạnh,dạy con người cần yêu thương, đoàn kết nhau.

 

     Và khi tôi đọc tác phẩm “Lão Hạc”, tác phẩm đã gợi lên bao cảm xúc yêu thương mà tôi đã bỏ quên, giấu nhẹm đi chưa bày tỏ. Đó là khi con trai của Lão Hạc bỏ đi làm đồn điền cao su, còn chỏng chơ mỗi mình Lão chỉ biết than vãn cùng ông Giáo “tôi chỉ còn biết khóc, chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi?...” cảm giác nhìn đứa con mình thương yêu đau khổ, không thể giúp gì được, nhìn nó cất bước ra đi khiến lão không khỏi đau xót, nghẹn lời, con mình ấy vậy lại trở thành “của người ta”. Tình thương của cha mẹ thường không biểu hiện bằng lời mà thể hiện bằng hành động, cử chỉ; lão Hạc lo sợ mình dần ăn hết mảnh vườn đã cắn răng bán đi con chó Vàng mình thương yêu, sợ mình trở thành gánh nặng của con khi về già nên đã chọn cái chết, tôi từng đọc đi đọc lại đoạn nhà văn Nam Cao miêu tả cái chết của lão Hạc nhiều lần, đọc rồi lại ngẫm, lại rơi nước mắt, đó là một cái chết dữ dội và đau đớn “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”, trong trí óc bé thơ của tôi ngày ấy không khỏi giận và trách móc nhà văn, tôi đã nghĩ: “một người lương thiện như lão phải xứng đáng nhận được hạnh phúc chứ không phải cái chết” nhưng rồi càng lớn tôi lại nhận ra “đó chẳng phải cũng là hình ảnh ba mẹ mình hay sao” ba mẹ luôn hy sinh, nhận phần cực nhọc, thiệt thòi về mình để mong con lớn lên hạnh phúc, đủ đầy: có những bữa cơm mẹ gắp đũa phần ngon nhất cho ta rồi ăn phần sót lại, có những hôm trời mưa thật lớn ba nhường áo mưa lại cho ta rồi cả người ướt sũng. Tình thương của ba mẹ không phô trương mà vô cùng kín đáo, thầm lặng như cách Nam Cao xây dựng. Và tôi tin rằng lời văn của Nam Cao không chỉ giúp tôi mà còn rất nhiều bạn đọc khác “kết nối” ba mẹ mình - những người vất vả một đời, sẵn sàng làm tất cả vì con như nhân vật lão Hạc, khiến ta thêm trân trọng, yêu thương đấng sinh thành.

 

     Hơn thế nữa, văn chương phá bỏ mọi hạn chế, bờ cõi, giúp ta “kết nối” không giới hạn. Ta muốn biết đến văn hóa, con người của đất nước xa lạ liệu có đủ điều kiện mọi mặt? Ta muốn nắm rõ được thời xưa liệu có quay ngược được thời gian? Ta không thể nhưng văn chương có thể, muôn vàn trắc trở, văn chương sẽ giải quyết tất cả. Văn chương như sợi dây vô hình không có giới hạn. Chưa từng đặt chân đến nhiều nơi nhưng ta có thể “đi đến” qua các câu ca dao:

 

“Bắc Kạn có suối đãi vàng

Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh”

Hay:

 

“Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”

 

Và cả có những người khát khao giao cảm một đời, khát khao “kết nối” một đời mà chẳng tìm chẳng tìm thấy, ấy mà khi đến với văn chương vượt qua thời gian, sức mạnh của nó đã giúp họ. Thật vậy, Nguyễn Du đã bắt gặp nàng qua tập thơ “Phần dư” đồng cảm, viết nên tác phẩm “Đọc Tiểu Thanh Kí”: 

 

“Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

                                                  Chi phấn hữu thần liên tử hậu

      Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

 

Nguyễn Du miêu tả cảnh Tây Hồ thật khác trong suy nghĩ bao người, nhẽ ra cảnh Tây Hồ phải là một mỹ cảnh phong phú vậy mà giờ đây đã “tẫn”- hoàn toàn biến đổi thành một gò hoang vu. Tác giả mượn hình ảnh Tây Hồ cốt để nói về sự biến đổi khốc liệt của thời cuộc, khi xưa Tiểu Thanh là cô gái xuân thì, chốc đã hóa thành người thiên cổ. “Độc điếu” - một người đơn độc viếng một hồn đơn độc, nỗi xót thương nuốt vào trong, “độc” và “nhất” cho thấy thi nhân đã đặt mình vào nàng Tiểu Thanh, chỉ “viếng” qua “chỉ thư”-tác phẩm của nàng mà đã thấu hiểu được nỗi đau của nàng. Là người có tài mạo xuất chúng “hữu thần” - có thần, có hồn song tài năng lại bị chà đạp, xinh đẹp nhưng không được yêu thương, chết trong đắng cay, tuổi hờn. Chỉ là cuộc gặp gỡ qua trang sách, qua văn chương mà đã khiến cho Nguyễn Du không khỏi thương xót. Để rồi ông ngẫm về đời, ngẫm về mình:

 

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn

                                                     Phong vận kỳ oan ngã tự cư

Bất tri tam bách dư niên hậu

      Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

 

Mối hận xưa nay, mối hận truyền kiếp, đó là sự tiếc hận cho những người tài năng nhưng lắm oan trái trong đời. nhà thơ “vấn” mình, “vấn” trời tại sao lại như thế vậy mà câu hỏi đó dường như trời cũng không thể lý giải được “hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng”. Nguyễn Du đồng bệnh tương liên với Tiểu Thanh. Văn chương đã “se duyên” cho cuộc gặp gỡ này, nó đã “vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ” khẳng định sức mạnh của mình. Tiểu Thanh cách Nguyễn Du 300 năm, cách xa địa lý nhưng chỉ cần bằng thơ văn đã có thể “kết nối”. Rồi đại thi hào đặt ra câu hỏi, cũng là lời khát khao, rồi 300 năm nữa liệu có ai tìm thấy ông, còn ai nhớ thương và đồng cảm với ông hay không? Ông khát khao tìm được một người “kết nối” với mình, hiểu thấu được nỗi lòng mình. Và thật kì diệu, chưa đến 200 năm sau, Tố Hữu với “sức mạnh kết nối” của văn chương đã tìm thấy và đồng cảm với Nguyễn Du, Tố Hữu bày tỏ:

 

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”

 

Ta với họ có thể ở những thời đại, có những rào cản cách xa nhau, song tìm đến văn chương chúng ta là một, bằng sức mạnh của mình văn chương sẽ kết nối tất cả.

 

     Ngẫm thấy, lời nhận định của Nguyễn Ngọc Tư thật xác đáng, văn học đã đồng hành cùng con người, trải qua bao thăng trầm chứng minh cho sức mạnh của nó. “lửa”, “băng”, “nước” đều là những thứ không thể thiếu trong cuộc sống của con người, văn chương cũng như thế ta không thể sống mà tách rời khỏi nó. Nó giúp sưởi ấm, “kết nối” trái tim ta, “nó làm con người gần người hơn” (Nam Cao), “kết nối” mọi người, mọi vật, mọi thời đại, để lại đằng sau những giới hạn của cuộc sống. 

 

      Và trong đại dịch Covid-19 liệu văn chương có đủ sức mạnh kết nối con người, kéo họ khỏi những bi quan, tuyệt vọng, khi con người thu mình lại, chú trọng “bảo vệ mình trước hết”? Đây là cuộc chiến không cân sức, văn học không thể biến thành khẩu trang bảo vệ con người, cũng không biến được thành thuốc uống, nhưng văn học hậu thuẫn phía sau tiếp thêm cho con người niềm tin và hy vọng để không cảm thấy lẻ loi và từ bỏ: “Cuộc sống vẫn đang tiếp tục. Làn sóng thứ 2 của dịch bệnh COVID lại ập tới. Cả nước lại bắt tay thật chặt bàn tay kết đoàn. Đó chính là sức mạnh vĩnh cửu của Việt Nam để tiếp tục thế trận chiến đấu để chiến thắng trên mọi mặt trận, mọi miền, tỉnh thành, thôn quê với tuyên ngôn giản dị, mộc mạc của cuộc sống. Từ đây, người biết quê người, từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người”(Paris+14). Những thông điệp tốt đẹp từ văn chương vẫn luôn bên bạn dù dịch bệnh không biết còn kéo dài bao lâu, nhưng khi bạn cần, mặc cho trong hoàn cảnh khổ đau hay hạnh phúc, văn chương chắc chắn cũng không rời khỏi hiện thực đó, không bao giờ bỏ lại ai phía sau trong cuộc chiến này. 

     Song, không phải tác phẩm nào cũng có sức mạnh kết nối, đó phải là một tác phẩm chân chính. Nhà văn trong quá trình sáng tác không thể sao chép hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Đó phải là một đứa con tinh thần được thai nghén, ấp ủ, phản ánh những vấn đề thật sâu sắc, dẫn bạn đọc đến gần hơn với “chân-thiện-mỹ”, nói như Nam Cao: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả nhân loại” nhà văn với bút lực của mình phải cống hiến hết mình cho văn chương, để “sức mạnh kết nối” ấy còn sống mãi. Với mỗi độc giả hãy đọc và thâm nhập vào tác phẩm, bằng vốn sống và tri thức của mình, sống cùng tác phẩm, nhập vào như “người trong cuộc” để hiểu thật sâu, nắm chặt sợi dây kết nối mà văn chương truyền đến. Khi có sự hòa hợp đó “sức mạnh kết nối” của văn chương mới thực sự lan tỏa.

 

     James Baldwin từng nói: “Bạn nghĩ rằng nỗi đau và con tim tan vỡ của bạn là điều chưa từng có trong lịch sử thế giới, nhưng rồi bạn đã đọc”. Vậy tại sao ta không thử đắm mình vào văn chương, tin tưởng “sức mạnh” kì diệu của nó như nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu? Hãy để văn chương “kết nối” với chính mình và xa hơn nữa là “kết nối” với vạn người, vạn vật. 

 

TRẦN THỊ TUYẾT VY

LỚP 11 CHUYÊN VĂN

TRƯỜNG THTH ĐHSP TP. HCM

(NĂM HỌC 2021 – 2022)

#baiviethocsinh_blogchuyenvan

#liluanvanhoc_blogchuyenvan

   

   

   



 


 [t1]Viết hay lắm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét