Đề bài:
Tô Hoài cho rằng: “Mỗi
trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Marcel Proust từng
quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ
sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”.
Anh/ chị hãy bình
luận về những ý kiến trên.
Bài
làm
Trong
tiểu thuyết “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ”, nhà văn Svetlana
Alexievich từng trải lòng: “Bởi tinh thần của con người không mạnh mẽ, cũng
không được bảo vệ như ta tưởng. Nó cần được nâng đỡ, cần ta tìm kiếm cho nó sức
mạnh từ đâu đó… Tôi muốn viết về lịch sử của cuộc chiến tranh ấy. Lịch sử của
những người phụ nữ”. Có lẽ là vậy, văn chương luôn là chuyện muôn đời, muôn người.
Người nghệ sĩ như kẻ đa đoan ôm trọn vào lòng bao nỗi buồn đau khắc khoải, để rồi
rót tất cả lên từng con chữ, len lỏi vào sâu trong tâm khảm bạn đọc, bầu bạn với
những linh hồn đơn côi quạnh quẽ, xóa tan đi những mảng màu băng giá của trái
tim cô độc và chai sạn. Vậy phải chăng sứ mệnh của văn chương nghệ thuật chính
là phản ánh đời sống, thanh lọc đời người và đồng thời tái tạo lại thế giới?
Cùng với những dòng suy nghĩ ấy, nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều
soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Nhưng Marcel Proust lại quan niệm: “Thế giới
được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì
lại một lần thế giới được tạo lập”. Vậy hai ý kiến trên có ý nghĩa như thế nào?
Từ cổ chí kim, văn chương vẫn luôn lấy con người
và cuộc đời làm cứu cánh. Đến với văn chương là đến với thế giới, là được thanh
lọc, giáo dục, mở rộng tâm hồn. Khi bàn luận về đặc trưng của văn học, Tô Hoài
cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Đó chính là lẽ tất
yếu của văn chương nghệ thuật. Tác phẩm phải trở thành một tấm gương phản ánh,
soi chiếu đời sống, phải là một khúc xạ của đời sống. Mỗi tác phẩm đều phải
“soi bóng thời đại”, phải cho con người ta thấy được bản chất của sự sống, của
cuộc sống thực tại. Nhưng nếu chỉ đơn thuần mang trong mình hơi thở của thời đại
thì vẫn chưa đủ làm nên sức nặng của tác phẩm. Trong mỗi trang văn cũng đồng thời
cần hiện lên một thế giới mới – thế giới được tạo lập từ những người nghệ sĩ
tài hoa, là thế giới của ước mơ và hy vọng. Chính vì lẽ đó, Marcel Proust quan
niệm rằng: “Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc
đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. “Người nghệ sĩ độc đáo” ở
đây chính là muốn nói đến phong cách, tài năng đôc đáo và riêng biệt của mỗi
người nghệ sĩ. Thông qua cái tài năng ngòi bút ấy thì “một lần thế giới được tạo
lập”. Đó là sự kiến tạo nên một thế giới với đầy tin yêu và hạnh phúc, là sự tạo
lập nên một thế giới “nó phải là”. Ngoài ra, tạo lập thế giới mới còn được hiểu
là sự bổ sung, giáo dục con người những suy nghĩ và tư tưởng tiến bộ, những lập
trường và quan điểm đúng đắn để từ đó con người tác động ngược lại vào cuộc sống,
góp phần tạo nên một thế giới mới tươi đẹp hơn. Như vậy, ý kiến của Tô Hoài và
Marcel Proust đã rất chính xác khi bàn luận về đặc trưng của văn học và chức
năng của văn học. Mỗi tác phẩm vừa phải thấm đượm cái hơi thở của thời đại, vừa
phải hướng ra một luồng sáng đầy ý nghĩa cho bạn đọc và đồng thời phải in đậm dấu
ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.
Nhìn
chung, hai nhận định trên tưởng chừng như mâu thuẫn, đối lập nhưng thật chất là
bổ sung ý nghĩa cho nhau. Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Vạt áo của triệu nhà
thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên
trang”. Vì thế, mỗi tác phẩm văn học phải là một bức tranh về đời sống, phải chứa
trong mình cái nhịp của thời đại, phải in dấu được “dấu vân tay” nghệ thuật của
người nghệ sĩ và đồng thời phải mang trong mình một sự vận động để nhằm kiến tạo
nên thế giới mới tốt đẹp hơn.
Cuộc
sống chính là nơi cung cấp chất liệu cho văn chương mà văn chương thì lại được
phát khởi từ cuộc sống nên thấm đẫm trong từng lời thơ, con chữ chính là hơi thở
của cuộc sống. Chính vì vậy mà nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Phải chăng có mối liên hệ thầm kín nào giữa sự
sáng tạo âm thầm của mỗi cá nhân nghệ sĩ với những biến động của cuộc đời? Nhà văn bao đời nay luôn tìm đến hiện thực
như một mạch nguồn cảm hứng sáng tác. Họ tìm đến những đau khổ ai oán, những bi
thương cùng cực, những đớn đau đoạn trường như một nguồn tài nguyên vô tận cho
tác phẩm của mình. Sẽ ra sao nếu tác phẩm của anh chỉ là những thứ viển vông,
hư ảo, chỉ là những điều giả dối, huyễn hoặc? Victor Hugo có lần tâm sự về nghề
viết của mình: “Bể khổ của nhân loại là nguồn khai thác không bao giờ vơi cạn của
đời tôi”. Hay Giáo sư Lê Huy Bắc đã từng cho rằng: “Nghệ thuật chỉ đạt đến đỉnh
cao của nó khi được chắt lọc từ những nỗi đau đích thực của cuộc đời”. Văn
chương bao đời luôn gắn mình với thời đại, với cuộc sống con người. Nó được ra
đời từng những cơn rung chấn, biến động của cuộc đời. Bất kì một sáng tác nào,
cho dù được viết theo lối chủ nghĩa hiện thực huyền ảo hay trường phái siêu thực
thì tất cả đều phải gắn liền với cốt lõi của hiện thực. Hiện thực chính là nguồn
gốc của nhận thức, của ý thức, là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật và đồng
thời là chìa khóa lí giải các hiện tượng phức tạp của đời sống. Hiện thực như một
bộ phận cấu thành để tạo nên nghệ thuật. Mặt khác, chức năng của văn học chính
là trở thành “thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo một
thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong
phú hơn”. Muốn
như thế, văn học phải phản ánh hiện thực cuộc sống, phải cho người ta thấy được
bản chất cốt lõi của sự sống, những vấn đề xung quanh con người. Nghệ thuật tự
nó không thể thay thế được cách mạng, không tạo ra nổi những tiến trình lịch sử,
nhưng thông qua sự tác động tới những tư tưởng, tình cảm con người, nó tham dự
vào sự vận động chung của xã hội như một nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác phẩm
sẽ rơi vào quên lãng nếu nó chỉ là sự sáo rỗng, vô hồn, nếu nó chẳng phản ánh
được những gì đang diễn ra trên cuộc sống này. Vì vậy, để những con chữ kia trở
thành những áng văn thơ “lụy phần dư”, để những tác phẩm kia nằm ngoài quy luật
phá hủy của thời gian thì mỗi trang văn đều phải “soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Nhưng
thử ngẫm nghĩ xem, nếu văn chương chỉ đơn thuần là khắc họa đời sống, là lát cắt
của cuộc đời mà chẳng hề mang lại giá trị lợi ích nào cho chúng ta thì liệu rằng
nó có thể tồn tại lâu bền với thời gian hay không? Mỗi tác phẩm còn phải là sự
giáo dục, hướng tới sự đúng đắn, phải tạo lập nên một” thế giới mới” thông qua
tài năng ngòi bút của người nghệ sĩ “độc đáo”. Trong “Lược khảo văn học”, Giáo
sư Nguyễn Văn Trung có viết: “Trước một thế gian tan vỡ hoặc có nguy cơ tan vỡ,
nhà văn nhặt nhạnh từng mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt sợi
dây đàn cảm xúc của con người”. Theo thuyết phân tâm học của Sigmund Freud, mỗi
tác phẩm trước hết phải là một giấc mơ. Đó là giấc mơ về thế giới mới, cuộc sống
mới chứa chan đầy hạnh phúc và hy vọng. Tác phẩm văn học phải vẽ nên được một
thế giới mới trong sự khát vọng và ước ao. Hơn thế nữa, văn chương phải giúp ta
thay đổi nhận thức, tư duy và suy nghĩ của chúng ta để từ đó kiến tạo nên một
thế giới “nó nên là và phải là” (Aristotle). Bản chất vốn đã thế, văn chương mang
lại nguồn sáng, nguồn sống cho cuộc đời, nó phải tạo lập nên được một thế giới
mới bẳng những con chữ, lời văn. Văn học phải mang trong mình chức năng giáo dục,
thanh lọc, thuần hóa tâm hồn con người. Nó phải cho ta thấy được sự chân-thiện-mỹ,
nó phải gieo vào tâm khảm mỗi người sự đồng điều và yêu thương. Nó phải xây dựng
được ở con người khát vọng vươn lên, biết tự soi mình để có được những nhận thức
đúng đắn để rồi tác động ngược lại vào cuộc sống một cách tích cực:
“Tôi nhìn thấy
trong trang sách chưa đọc
sự vắng mặt của mình
thấy trong cái bóng mất hình
ánh tà dương cũ
tan tình trong sương
tôi nhìn thấy một nỗi buồn”.
(“Cái bóng mất hình”, Nhật Chiêu)
trong trang sách chưa đọc
sự vắng mặt của mình
thấy trong cái bóng mất hình
ánh tà dương cũ
tan tình trong sương
tôi nhìn thấy một nỗi buồn”.
(“Cái bóng mất hình”, Nhật Chiêu)
Đọc một tác phẩm văn học,
ta chẳng cần quan tâm đến quốc tịch, màu da, sắc tộc của nhân vật. Điều mà ta cần
chú ý đến chính là những hình tượng nghệ thuật, tâm lý nhân vật, tính cách,
cách ứng xử, …Thông qua những hình tượng ấy, có vẻ dường như văn chương chất chứa
trong mình sự vận động, nó khiến cho mọi người tự soi mình và tự nhận thức mình
để từ đó “một lần nữa thế giới được tạo lập” thông qua ngòi bút sắc sảo của tác
giả. Chính vì lẽ đó, để tác phẩm của mình trở thành những tuyệt tác muôn đời, để
tác phẩm “nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái
chết” (Sedrin) thì mỗi nhà văn cần tạo lập nên một thế giới mới thông qua những
ngôn từ nghệ thuật, cần gieo vào lòng bạn đọc những chân lý và tư tưởng.
Ngoài
ra, nhận định của Marcel Proust còn nhấn mạnh ở chỗ “người nghệ sĩ độc đáo”.
Bên cạnh việc phản ánh hiện thực cuộc sống và mang lại những giá trị cao cả cho
người đọc, tác phẩm văn học còn phải mang đậm cá tính sáng tạo của người nghệ
sĩ. Mỗi người nghệ sĩ cần phải có sự độc đáo trong phong cách sáng tác. “Văn
chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Bản chất của hoạt động
sáng tạo chính là phủ nhận cái cũ và tiếp thu cái mới. Để có thể tác động sâu mạnh
tới bạn đọc nhằm xây dựng nên một thế giới mới, tác phẩm phải để lại sức ấn tượng
mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Người nghệ sĩ phải gửi vào trang viết kia những dấu
ấn cá nhân, cái tôi hiện sinh, cái tôi bản ngã của chính mình. Anh phải thể hiện
được góc nhìn mới, nội dung mới, chủ đề mới, phải có sự khác biệt với các nhà
văn khác và với cả chính mình trong xưa cũ. Bạn đọc sẽ hoàn toàn phớt lờ đi tác
phẩm nếu như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ hiện lên trên trang văn kia chỉ
như “sương khói mờ nhân ảnh”. Như vậy, trong từng trang thơ hai mặt giấy kia
cũng đồng thời phải in đậm “dấu vân tay nghệ thuật” riêng của người nghệ sĩ.
Văn
chương vốn tự thân của nó đã mang trong mình những sứ mệnh cao cả và những đặc
trưng riêng biệt. Mỗi trang văn tựa như một trang đời. Hơn thế nữa trên cái
trang văn kia còn hướng ra một luồng ánh sáng cho người đọc, đem đến cho độc giả
vô vàn những giá trị lợi ích cao đẹp thông qua từng con chữ, thông qua ngòi bút
“độc đáo” của tác giả. Nhà văn ví như một kẻ diễn xiếc ngôn từ. Họ giao thoa
vào cõi đời vội vã để rồi bật lên từng hồi vang vọng, gột rửa thời đại bằng chính
giọt nước mắt của thi ca.
Bao
đời nay, nhà văn luôn tìm kiếm hạt bụi vàng lắng sâu trong lớp vỉa trầm tích của
hiện thực như một chất liệu để làm nên tác phẩm của mình. Từ những chi tiết hiện
thực ấy, nhà văn muốn khái quát nên một thời đại, một lịch sử với đầy rẫy những
mất mát và đau thương. Chẳng những vậy, qua những chi tiết ấy, người nghệ sĩ như
muốn nhắn gửi đến bạn đọc một thông điệp đầy ý nghĩa, muốn gieo vào lòng bạn đọc
sự đồng cảm và thương xót, muốn vẽ nên một thế giới mới với sự hạnh phúc và an
yên. Điều này có lẽ rất giống với “Tây Tiến” của Quang Dũng:
“Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Cảm hứng anh hùng kết hợp
với bút pháp lãng mạn đã miêu tả rõ nét những khốn cùng của hiện thực tàn khốc
thấm đẫm đau thương và đồng thời thể hiện được nét đẹp hùng dũng của người lính
Tây Tiến. “Quân xanh màu lá” là tượng trưng cho những khổ đau, bệnh tật, tiều tụy
mà chiến tranh, do sốt rét rừng gây ra. Nhưng đối lập với hình ảnh đó chính là
một sự hùng dũng “dữ oai hùm”. Đó là khí phách hiên ngang, chất phác và ngang
tang, bất chấp mọi gian khó của đoàn binh Tây Tiến. Dù cho phải chịu đựng bao
cơ cực đắng cay như, dù cho phải chịu bao sự mất mát, hy sinh và ly biệt “Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc”, “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”,… nhưng hình ảnh
người lính hiện lên với một khí chất đầy anh hùng, đầy nhiệt huyết “Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh”. Nếu chỉ đơn thuần là khắc họa hiện thực với đầy khổ
đau bất tận thì chẳng thể nào làm nên sức nặng của tác phẩm, chẳng thể làm nên
một khúc tráng ca đầy hào hùng và oanh liệt. Cái “độc đáo”, cái mới lạ của
Quang Dũng ở đây chính là khắc họa hình ảnh chiến trường đầy đau đớn đã làm người
lính tiều tụy nhưng không hề gục ngã trước cuộc đời, trước số mệnh. Ở “Tây Tiến”,
ta không chỉ thấy những hình ảnh quen thuộc từ các ngòi bút khác như: “áo anh
rách vai/ quần tôi có vài mảnh vá” (Chính Hữu) hay “áo vải chân không/ đi lùng
giặc đánh” (Nguyên Hồng) mà ta còn thấy được một hình ảnh đầy cao thượng “Gục
lên súng mũ bỏ quên đời”, ta còn thấy được tồn tại trong tâm hồn người lính còn
có cả những nét lãng mạn nhẹ nhàng “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Bằng ngòi
bút điêu luyện và cái nhìn tinh tế, độc đáo của mình, nhà thơ đã khắc họa nên
hình ảnh người lính với đầy nhiệt huyết và tinh thần hăng hái, bất chấp mọi hiểm
nguy gian khó, sẵn sàng hướng ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc. Qua từng lời thơ, nhà
văn muốn khắc họa toàn diện về một chiến tranh với đầy rẫy những đớn đau, chứa
đựng bao nỗi cùng cực, sự chia lìa, ly biệt để rồi từ đó nhen nhóm lên trong
lòng độc giả sự thương cảm với những người đã xả thân mình vì sự nghiệp Tổ quốc,
khơi dậy tình yêu quê hương đất nước và đồng thời nói lên những khát khao về đất
nước, “thế giới mới” độc lập, yên bình.
Khi
bàn luận về quá trình sáng tạo Ivan Turgernev đã từng quan niệm rằng: “Cái quan
trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể có trong bất kì tài
năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói riêng của mình”. Thật vậy, điều
làm nên sự hấp dẫn của tác phẩm chính là sự độc đáo và mới lạ của người nghệ
sĩ. Nếu văn chương chỉ là sự lặp lại quen nhàm, chán nản thì chắc chắn rằng vận
mệnh của nó sẽ là cái chết. Thử hỏi xem điều gì đã làm nên một “Truyện Kiều” được
vang danh lâu bền đến tận ngày hôm nay? Phải chăng đó chính là nhờ sự độc đáo
trong ngòi bút, trong đề tài của Nguyễn Du khi ông lựa chọn viết về người phụ nữ
phong kiến mà xã hội đương thời hiếm khi nào có? Điều gì đã khiến cho nữ sĩ Hồ
Xuân Hương lại có một sức ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ trong lòng bạn đọc? Đó
có phải là nhờ sự ý thức nữ quyền, sự phản kháng mạnh mẽ và khí chất ngang tàng
“Nín đi kẻo thẹn với non sông”? Thơ của Hồ Xuân Hương nhuốm chút vị buồn pha vị
chua chát nên tình đã phả vào văn một cách lạ kì, chẳng ai bắt chước được mà
cũng chẳng bắt chước được ai. Chính vì vậy, “Nhà văn không có phép thần thông để
vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới trong con mắt nhà văn phải có hình sắc
riêng” (Hoài Thanh). Cái nhìn của mỗi nhà văn về sự vật phải khác biệt so với
chung quanh.
Cùng
viết về hiện thực, lịch sử đẫm máu và bi thương nhưng điều gì đã khiến cho “Chiến
tranh không có một khuôn mặt phụ nữ” của Svetlana Alexievich lại trở nên hấp dẫn
và độc đáo đến thế? Sức hấp dẫn lớn lao cho tác phẩm chính là ấn tượng chủ quan
của nhà văn về hiện thực chiến tranh. Nhìn lại lịch sử thông qua lăng kính của
một con người từng chịu đau đớn bởi chiến tranh và may mắn sống sót sau chấn
thương, nhìn lại quá khứ với vị trí của con người sống ở thực tại, nhìn lại một
thời hoa lửa với góc nhìn của người phụ nữ từng trực tiếp ra chiến trường,
Svetlana Alexievich muốn tố cáo tội ác của chiến tranh đã đay nghiến tâm hồn lẫn
thể xác của con người để rồi vẽ nên một sự thanh bình êm dịu, muốn gieo vào
lòng bạn đọc sự căm phẫn về chiến tranh phi nghĩa, sự thương xót cho những thể
xác đã từng chịu đớn đau bằng chính ngòi bút sắc sảo, mới lạ của mình:
Xuyên
suốt thiên truyện, nhà văn đã viết về những cô gái xả thân nơi tiền tuyến: “họ
mười bảy, mười tám tuổi, phần động vừa ra trường hoặc năm hai đại học”. Những
cô gái tuổi đời còn rất trẻ, tưởng chừng như không thể làm được những việc nặng
nhọc, nhưng họ vẫn quyết định ra đi, bất chấp đối mặt với những gian khó và cơ
cực “người ta vội vàng dạy họ cách sử dụng một khẩu tiểu liên, một khẩu súng
máy. Ném bom và đặt mìn. Họ thuần thục tất cả các nhiệm vụ quân sự, thậm chí đó
là những nhiệm vụ dành cho con trai”. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều làm nên sức
hấp dẫn cho tác phẩm. Svetlana Alexievich đã nhìn nhận chiến tranh với con mắt
của người phụ nữ: thoáng chút đượm buồn phôi pha, nữ tính. Là phái nữ ra chiến
trường, họ vẫn chính là họ, “giành giữ lãnh địa bên trong họ”. Vào mùa xuân,
các cô mang về một cành cây con cắm giữ trong nước, như nhìn vào đó mà tiếp
thêm cho mình sức sống, họ luôn chứ ý giữ cho mình nụ cười tươi nhất có thể.
Nhưng môi trường kỷ luật và khắc nghiệt của chiến tranh đã không cho phép họ
làm như vậy, họ đành tiếc nuối chôn giấu những mong muốn ấy vào sâu bên trong
cái ưu tư của riêng mình. Cũng chính vì phái nữ tham gia tiền tuyển nên sự tổn
thương giày xéo lên họ càng lớn hơn gấp bội phần. “Bọn SS đang tới rất gần.
Không ai dám truyền đạt lệnh của người chỉ huy, nhưng tự người mẹ đoán ra. Cô
nhận đứa bé địu trên người xuống nước và giữ hồi lâu… Đứa bé không còn rống lên
nữa. Nó đã chết". Chiến tranh đã hủy diệt con người, hủy diệt sự sống. Bản
chất, thiên chức của người phụ nữ là sản sinh ra sự sống, vun đắp nên sự sống
và mang đến tình yêu thương nhưng tại sao trong chiến tranh, họ buộc phải giết
người, giết chết đi cái bản tính yêu thương của mình, giết chết đi sự nữ tính của
mình. Chiến tranh đã khiến cái bản năng giới tính của họ bị giới hạn. Họ như đã
bị đánh cắp đi cái nữ tính bên trong của mình. Và đau đớn không chỉ đơn thuần xảy
ra ở chiến tranh mà nó còn di căn đến thực tại, đến hậu chiến tranh. Những
thương tổn ấy dường như đã đeo bám, ám ảnh dài dặc, hằn sâu trong tâm trí người
lính nữ: “Tôi giặt quần áo, tôi nấu ăn, nó vẫn ở đấy, nó đeo bám tôi khắp nơi…
đối với tôi, tất cả đều là mùi máu”. Họ đã bị ám ảnh bởi những xác chết, bởi
máu, súng trường đạn dược. Tất cả những điều đó đã gây ra bao thương tổn cho họ.
Có thể nói, chiến tranh quốc gia kết thúc cũng là lúc họ phải đối diện với một
cuộc chiến tranh khác, cuộc chiến chống lại những thành kiến, chống lại tuổi
già, bệnh tật và cả những nỗi ám ảnh dai dẳng. Đó là cuộc hành trình đi tìm lại
bản ngã của chính mình, hàn gắn lại những tổn thương. Svetlana Alexievich viết
những điều ấy để cho độc giả thấy rằng: đằng sau hào quang chiến thắng của những
người anh hùng còn là những góc khuất mà ta chưa thấu rõ, còn là đầy rẫy sự bi
thương mà không thể nào hóa giải. Tự sự về chấn thương là hành trình diễn lại nỗi
đau và khắc sâu nỗi đau. Mượn những vấn đề của xã hội thực tại, mượn những sang
chấn tâm lý của những người phụ nữ, bà đã tố cáo cái bỉ ổi, cái phi lý của chiến
tranh, nói lên cái hậu quả nặng nề mà nó mang lại kéo dài dằng dặc lâu bền
không chấm dứt. Nỗi thống khổ của chiến tranh không dừng lại ở việc “quân xanh
màu lá”, cũng chẳng còn là “không có kính rồi xe không có đèn/ không có mui xe,
thùng xe có xước”. Đó còn là những nỗi đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, là nỗi
đau đánh mất đi sự nữ tính và lòng bao dung bên trong mình, là những ám ảnh
chôn sâu vào tâm khảm của mỗi người. Cái độc đáo, cái “hình sắc riêng” của nhà
văn ở đây được thể hiện qua con mắt những người từng tham gia chiến tranh – những
người phụ nữ - để tác phẩm trở nữ tính hơn mà hầu hết xưa nay các tác phẩm khác
đều nhìn qua con mắt nam giới, từ đó nhà văn muốn lột tả được chiến tranh đã lấy
đi tuổi tác, sức mạnh tinh thần lẫn thể xác và cả bản tính của con người khiến
cho “chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ”. Đó cũng là khát khao cũng muốn
tạo lập nên một thế giới mới, một thế giới hòa bình, mong muốn giành lại bản
tính nữ bên trong của những người lính, tìm lại bản ngã, ẩn ức của những chiến
binh Liên Xô. “Con người sau bao nhiêu đau khổ sẽ biết thương xót nhau. Họ sẽ
thương yêu nhau. Nhân loại sẽ thay đổi”. Bằng chính bản thân “người nghệ sĩ độc
đáo”, cái “độc đáo” của nhà văn là muốn con người ta nhìn nhận đúng về chiến
tranh, về sự tang thương, đầy tang tóc và tàn khốc của nó chứ không đơn thuần
là là những khốn cùng, khó khăn của chiến tranh, để từ đó khơi vào lòng bạn đọc
sự trắc ẩn, thương cảm, góp phần kiến tạo nên thế giới mới. Qua tác phẩm, nhà văn muốn
gửi đến độc giả bức thông điệp về tự do, hòa bình. Thế giới đã đi qua chiến
tranh, đã tìm thấy màu xanh hòa bình của nó, nhưng trong con mắt của những người
từng tham gia chiến trường, họ sống giữa thời bình mà kí ức về chiến tranh vẫn
ám ảnh mãi. Bầu trời hòa bình ấy như một món quà mà Thượng Đế ban tặng, đền đáp
cho sự hy sinh cao cả, đó cũng đồng thời là lời gợi nhắc về sự biết ơn, trân trọng
sự sống, trân quý sự tự do và hạnh phúc.
Từ
xưa đến nay, văn chương luôn phản ánh đời sống, mang trong mình hơi thở của sự
sống. Ngoài ra, văn chương cũng còn mang trong mình một sứ mệnh cao cả chính là
mang ánh sáng cho người đọc. Nhận định của Tô Hoài và Marcel Proust đã rất
chính xác khi bàn luận về đặc trưng và thiên chức của văn chương nghệ thuật đồng
thời nêu lên phẩm chất mà mỗi nhà văn cần có. Đó chính là tiếng nói riêng,
phong cách riêng, phải có một sự “độc đáo”. Để tác phẩm của mình trở thành những
kiệt tác, những áng văn thơ bất hủ muôn đời, mỗi nhà văn phải trau dồi năng lực
viết và thể nghiệm đời sống, cần trau dồi cái tâm và cái tài của mình, phải “trải
niềm đau trên trang giấy mong manh”. Nhà văn cần phải hướng ngòi bút của mình về
cuộc đời, tác phẩm phải truyền thổi vào lòng bạn đọc những tia sáng của niềm
tin và hy vọng. Từng câu chữ, lời văn phải len lỏi vào sâu trong tâm khảm mỗi
người để nhằm thanh lọc, nâng đỡ và yêu thương. Mặt khác, tác phẩm chính là
thành quả của sự đồng sáng tạo giữa nhà văn và bạn đọc. Độc giả cần có một khả
năng tiếp nhận phong phú, khả năng cắt nghĩa văn bản tốt để có thể hiểu được những
vấn đề mà nhà văn đặt ra.
Dòng
thời gian vẫn trôi chảy theo bản chất của nó. Hiện thực rồi cũng thành quá khứ,
thời gian rồi cũng trở thành lịch sử. Duy nhất chỉ có những tác phẩm chân
chính, tác phẩm mang trong mình cái nhịp của thời đại, mang đậm dấu ấn bản ngã
của người nghệ sĩ và mang lại giá trị lợi ích cho người đọc thì mới tồn tại mãi
với thời gian.
VŨ MINH ĐỨC
THPT MARIE CURIE
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét