Bài
làm:
Sóng Hồng từng viết:
“Thơ là thơ nhưng đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”.
Lời nhận định ấy khiến tôi không khỏi hoài băn khoăn. Mọi lĩnh vực nghệ thuật
tuyệt mỹ trên thế gian này như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,…phải chăng đều phải
khuất phục trước một nghệ thuật đã đạt đến tuyệt đỉnh-thơ! Dường như thơ đã nắm
trọn chiếc ngai vàng quyền quý trong thế giới nghệ thuật nói trung và trong văn
học nói riêng.Phải chăng vì lẽ đó mà nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định: “Thơ
là bà chúa của nghệ thuật”.
Từ lâu, nhiều nhà phê
bình văn học đã đi tìm một định nghĩa cho “Thơ”, nhưng không có một định nghĩa
nào thỏa đáng cả, mặc dù thơ ca đã có từ lâu, trải qua nhiều bước thăng trầm,
tiến hóa theo đà phát triển của nhân loại,…Nhưng suy xét cho cùng, thơ là một sự
đúc kết hoàn hảo của tác phẩm nghệ thuật, được xét trên hai phương diện: nội
dung và hình thức. Sở dĩ Xuân Diệu trao cho thơ một chiếc vương miện hào nhoáng
vì người tôn thờ thơ ca như một đấng sinh linh, đã bước vào cuộc đời sáng tác của
biết bao thi sĩ tựa một vị chúa trời, không một lĩnh vực nghệ thuật nào có thể
sánh ngang với sức mạnh hoàn hảo của thơ ca. Một tác phẩm hội họa có phối hợp
khéo léo những gam màu đến đâu, một bản giao hưởng với những nốt nhạc du dương,
sâu lắng đến đâu hay những tác phẩm điêu khắc có hoàn hảo đến đâu,…cũng đều phải
cúi mình trước ánh hào quang của thơ và ca tụng thơ bằng hai tiếng: “bà chúa”!
Phải chăng, qua lời nhận định của mình, Xuân Diệu muốn nhắn gửi đến nhân loại rằng:
thơ là một vẻ đẹp hoàn hảo nhất về mặt nội dung cũng như hình thức của văn học.
“Cháu thương bà biết
mấy nắng mưa!”
(Bếp
lửa)
Không chỉ riêng cảm xúc
mãnh liệt của thi sĩ nhắn gửi trong thơ mới tôn vinh thơ ca lên ngồi hàng ghế của
“bà chúa”. Nội dung trong thơ còn là những cảm xúc sâu sắc được soi sáng dưới
lý tưởng của xã hội. Vào những năm 1930, những năm thực dân Pháp xả súng không
ngừng trên đất Việt, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời-một ánh sáng soi chiếu cho
quân dân ta đứng lên chống lại ách nô lệ của quân thù. Tố Hữu cũng không ngoại
lệ-một anh thanh niên mười tám tuổi, trẻ trung, bồng bột, nhiệt huyết cũng bước
theo tia sáng ấy:
“Từ
ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
(Từ ấy)
Hai câu thơ như một
tình cảm hân hoan bùng nổ của một người lính non tay súng, vừa giác ngộ lý tưởng
cách mạng cao đẹp. Tập thơ “Từ ấy” đã là minh chứng cho bước chân của thơ ca được
dẫn dắt theo một lý tưởng xã hội, cụ thể là lý tưởng Cộng sản của nhân dân Việt
Nam.
Vị cha giáo mang tên “tác
phẩm nghệ thuật” sau khi trao vương miện cho “bà chúa của nghệ thuật”, người đã
đọc cho nhân loại nghe một kinh thánh, nội dung rằng: thơ ca mang đến cho con
người những tình cảm được dẫn dắt bởi tư tưởng cao quý.
Đúng vậy, để lên ngồi
hàng ghế của nữ hoàng, thơ ca ắt hẳn phải chứa đựng những tình cảm cao đẹp theo
một tư tưởng. Tư tưởng ấy phải chăng là những tư tưởng của nhà thơ mà đồng thời
cũng là những tư tưởng của bạn đọc. Lạ thay, thơ là tiếng lòng của một người, vậy
mà sao khi ta ngâm, ta lại tìm thấy chính mình trong ấy, tâm hồn mình như hòa
quyện vào tâm hồn của thi sĩ:
“
Biển bướm đỏ rào rào trong gió mát
Lá
non xanh như suối chảy trên trời
Phượng, phượng hỡi! Cớ sao mà man mác
Mỗi mùa
hè run rẩy với triều môi.”
(Phượng mười năm-Xuân Diệu)
Ai mà không trải qua một
thời áo trắng, ai mà không một là ngồi dưới gốc cây phượng già, không nhìn ngắm
những mùa hoa đỏ rợp sân trường, không tiếc nuối những tuổi hè vội vã qua đi.
Thế cớ sao đọc lại những dòng thơ man mác nỗi buồn của Xuân Diệu, ta như sống lại
những ngày bên gốc phượng, nỗi rung động khi từ biệt áo trắng cứ lại day dứt
lên trong lòng? Ấy phải chăng là sức mạnh của “bà chúa” thơ ca đem lại không? Không chỉ mang đến cho
tâm hồn người viết cũng như người đọc những tình cảm nồng nàn, thơ ca còn mang
lại cho con người những bài học về nhân sinh. Một trong những chức năng văn học
là giáo dục con người, mang đến cho con
người những bài học về cuộc sống, về đối nhân xử thế, v.v…Thơ ca cũng vậy, “bà
chúa” của chúng ta cũng gửi gắm những bài học đạo đức cần thiết qua từng câu
thơ ngắn gọn. Một trong số ấy là những bài học về tấm lòng ân nghĩa thủy chung.
Thái độ sống tích cực ấy được nhà thơ Nguyễn Duy nhắc nhở bạn đọc qua tác phẩm
“Ánh trăng”:
“Ngửa
mặt lên nhìn mặt
có
cái gì rưng rưng
như
là đồng là bể
như
là sông là rừng
Trăng
cứ tròn vành vạnh
kể
chi người vô tình
ánh
trăng im phăng phắc
đủ
cho ta giật mình.”
Phải chăng nhà thơ đã
thức tỉnh khi bất giác nhìn lên ánh trăng xưa, bao nhiêu ngày tháng, bao nhiêu
kỉ niệm cứ hối hả ùa về như tiếng riết rống vẫy gọi từ quá khứ, như những tiếng
chuông vang vọng muốn chất vất lương tâm của tác giả. Một vầng trăng tình cờ gặp
một kẻ vô ơn, một con người lãng quên, giờ đây cũng không thể trốn chạy quá khứ
và lừa dối chính mình được nữa. Nhưng hãy nhìn xem, ánh trăng vẫn mãi sáng trên
trời cao như một tấm gương soi chiếu lương tâm tác giả, để con người tìm lại
chính mình, tìm lại những vẻ đẹp vĩnh cửu, bất biến. Trăng cứ mãi tròn trijca,
bao dung như tấm lòng thủy chung. Cái im lặng vô tình của ánh trăng là một khoảng
lặng nghiêm khắc nhưng bình dị, gần gũi, độ lượng biết bao. Làm cho kẻ vô tình
ngày một sám hối, thức tỉnh chính mình, hồi sinh những ngày tháng tươi đẹp gắn
bó với ánh trăng bất biến. Cái giật mình của tác giả phải chăng cũng là của bạn
đọc chúng ta? Bài thơ “Ánh trăng” như một tiếng kêu gọi thức lương tâm, đâu chỉ
riêng của nhà thơ, mà còn là bài học triết lý sâu sắc cho bất cứ ai đang lãng
quên những kỉ niệm tốt đẹp của quá khứ, và sẽ lặn lội tìm về cái ánh sáng bất
biến ấy của mảnh trăng trong bài thơ.
Không chỉ là “bà chúa”
về mặt nội dung, thơ ca còn là “bà chúa” về mặt hình thức.
Mayacovxki từng nói:
“Phải phí tổn nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi,
Một chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu
năm dài.”
Thơ là một nghệ
thuật thuộc phương thức trữ tình, mà phương thức trữ tình thường ngắn gọn và
hàm súc. Thế nên một nhà thơ cũng đã từng nói “Thơ là y tại ngôn ngoại”. Nhiều
khi thơ ca chỉ bộc lộ những cảm xúc nhất định, kéo dài sẽ đơn điệu và nhàm chán
chăng? Có thể đấy là lý do vì sao mà thơ đòi hỏi sự súc tích, sự dồn nén ý
nghĩa gói nặng trịch trong mấy câu chữ ít ỏi. Điển hình như lời thốt lên của
đứa cháu từ niềm trân trọng, biết ơn chi chợt nhận ra một vật nhỏ bé đơn sơ lại
có một sức mạnh phi thường:
“Ôi kì lạ và
thiêng liêng-bếp lửa!”
(Bếp lửa-Bằng Việt)
Chỉ với hai từ
“thiêng liêng” và “kì lạ”, Bằng Việt đã dồn nén bao nhiêu tầng ý nghĩa về hình tượng bếp lửa! Bếp lửa kì lạ và vì
đấy là một bếp lửa hay là tình yêu nồng nàn giữa bà và cháu? Là một vật nhỏ bé
đơn sơ hay là những bài học truyền thống tốt đẹp mà ngàn đời người bà gìn giữ,
truyền dạy cho cháu trưởng thành, bài học về sự chia sẻ, về tình yêu làng, yêu
quê hương, đất nước? Bếp lửa thiêng liêng là vì ở đấy là một ngọc lửa âm ỉ cháy
để nấu xôi gạo, khoai sắn hay là ngọn lửa trong tim người cháu, soi sáng dẫn
lối để cháu trưởng thành? Là ngọn lửa để sưởi ấm tấm thân hay để sưởi ấm cho
tinh thần dân tộc truyền lại từ lâu đời, là ngọn lửa đại diện cho hai số phận
cụ thể hay biết bao con người trên mảnh đất Việt Nam? Qua những từ ngữ chắt lọc
mà nhà thơ sử dụng, bạn đọc nhận ra hình tượng bếp lửa quả là một hình tượng
chất chứa biết bao cảm xúc và hàm ý cô đọng. Không chỉ những từ ngữ chọn lọc và
đắt giá mới có thể dồn nén bao tâm trạng của thi sĩ mà đó còn là những khoảng
lặng. Nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của thơ là bày tỏ cảm xúc, mà cảm xúc mà thi
sĩ dồn nén có khi không cần phải nói ra, mà với sự suy nghĩ sâu xa mơ hồ của
độc giả cũng có thể giải mã cảm xúc của nhà thơ-chính sự dồn nén bí ẩn ấy là
những khoảng lặng. Khoảng lặng phải chăng đơn thuần chỉ là những khoảng trắng
giữa các con chữ hay giữa cách ngắt nhịp, dấu ba chấm, cách phối âm, vần điệu
hay tiến xa hơn là những giây phút mà nhà văn có thể nghẹn lại, cố tình nuốt
trọn nỗi xúc động để bạn đọc vớt lên? Đấy có lẽ cũng chính là nỗi nhớ nghẹn
ngào trong cổ họng về thực tại xa cách của hai bà cháu:
“Nay cháu đã đi
xa. Có ngọn khói trăm tàu”
(Bếp lửa-Bằng
Việt)
Dòng thơ bị cắt
đôi bởi một dấu chấm.Cũng chỉ cần một dấu chấm nhỏ nhoi đó thôi mà tác giả cũng
đã gợi ra cho bạn đọc biết bao liên tưởng. Đấy là cảm xúc đứt đoạn, cái nghẹn
lại trong cổ họng. Một dấu chấm biểu hiện cho sự chia cắt của thực tại, cũng là
một dấu chấm kết thúc của dòng chảy kí ức ngừng lại, quay về với hiện tại đầy
đủ, ấm no nhưng thiếu bếp lửa, thiếu tình thương yêu săn sóc của bà. Khoảng
lặng trong bài thơ chẳng hiện hữu trên từng con chữ, mà hiện hữu trong tâm trí
bạn đọc, như mở ra biết bao dòng liên tưởng, như Nguyễn Tuân đã nhận định: “Thơ
như mở ra những điều trước câu thơ đó trước nhà thơ đó vẫn còn như bị phong
kín”
Như đã nói, âm nhạc-một trong những nghệ thuật
tinh hoa nhất của thời đại cũng phải ngước nhìn “bà chúa của nghệ thuật”. Vì
bởi lẽ, thơ ca cũng như một bản nhạc của cuộc sống. Khi đọc thơ, ta nghe từng
câu thơ như chất chứa một bản nhạc vậy. Thơ được cấu tạo bởi ngôn từ nghệ
thuật. Mà chính những ngôn từ ấy đều có vỏ bọc ngữ âm. Chính nhờ sự vận dụng
khéo léo và nhuần nhuyễn ngữ âm của nhà thơ đã làm câu thơ bỗng trở nên uyển
chuyển, giàu tính nhạc. Thế nên, thơ-“bà chúa của nghệ thuật” cũng khiến cho âm
nhạc cũng phải nghiêng mình kính cẩn,Xuân Diệu cũng từng nhận định: “Thơ là
tiếng gọi đàn”. Đúng vậy, thơ và nhạc có rất nhiều điểm tương đồng. Nói vậy có
nghĩa: một số bài thơ đã được phổ nhạc, những bài hát đó luôn làm rung động
trái tim người nghe, tiêu biểu là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, có
cách ngắt nhịp vô cùng uyển chuyển, làm câu thơ giàu âm điệu vô cùng:
Mọc/giữa
dòng sông xanh
Một/
bông hoa tím biếc
Ơi/
con chim chiền chiện
Hót
chi/ mà vang trời
Từng
giọt/ long lanh rơi
Tôi
đưa tay/ tôi hứng
…
Ta
làm/ con chim hót
Ta làm
/một nhành hoa
Ta
nhập /vào hòa ca
Một
nốt trầm/ xao xuyến”
Xuyên suốt bài, giọng thơ mang một âm hưởng
nhẹ nhàng, tha thiết. Thanh Hải đã vận dụng khéo léo cách ngắt nhịp1/4,2/3 tạo
nên một giai điệu du dương, truyền cảm đúng chất của dân ca Huế. Hơn nữa, bài
thơ phối thanh bằng làm cho cảm xúc trầm lắng, dịu nhẹ. Giọng thơ càng vang xa
hơn như khúc nhạc chào xuân tươi vui nhờ âm ơi được tiếp nối liên tục của vần
“ơi”. Không những vậy, hình ảnh “ một nốt trầm” như lắng lại trong lòng người
đọc, để rồi “xao xuyến”-đấy là khi bạn đọc tìm thấy sự đồng cảm, bồi hồi khi
một nốt trầm cất lên. Tất cả những âm hưởng mà tác giả mang lại đã tạo nên một
làn điệu dân ca sông Hương núi Ngự đậm đà, sâu lắng,…Chính vì lẽ đó mà bài thơ
được phổ nhạc. Bài hát mùa xuân nho nhỏ đã lấy âm hưởng tuyệt diệu của thơ, kết
hợp với nền nhạc êm ái, du dương.
Mayacovxki cũng từng nhận định: “Làm thơ là
cân một phần nghìn miligram quặng chữ”. Đúng vậy, “bà chúa của nghệ thuật” đã
dẫn đầu về việc sử dụng ngôn từ đắt giá. Một trong những nguyên liệu mà thơ ca
sử dụng là ngôn từ nghệ thuật. Việc sử dụng từ ngữ trong bài thơ cũng quan
trọng không kém gì việc phối màu cho một bức tranh hay chọn lọc hình khối cho
một bản kiến trúc. Từ ngữ trong thơ phải được thi sĩ chọn lọc thật kĩ lưỡng,
sao cho thật chính xác. Chính vì sự đong đếm từ ngữ tinh luyện mà tác phẩm
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã sở hữu một giá trị bền lâu. Chẳng hạn khi miêu
tả hai bức chân dung của chị em Thúy Kiều, đại thi hào họ Nguyễn đã chọn lọc từ
ngữ vô cùng đắt giá:
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Và
“Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh”
Cũng đều là miêu tả hai tuyệt sắc giai nhân,
cũng đều lấy thiên nhiên ra làm chuẩn mực so sánh, mà sao đối với Thúy Vân lại
là “thua,nhường” và Thúy Kiều lại là”ghen hờn”? Hai cặp từ đối lập ấy phải
chăng là những đường chỉ hồng mà Nguyễn Du dùng để thêu dệt?Người thêu lên hai
bức tranh của hai nàng mỹ nhân “mai cốt cách, tuyết tinh thần” hay thêu lên hai
bức chân dung số phận khác nhau? Đối với Thúy Vân, thi sĩ cho thiên nhiên
nhường nhịn, không tranh chấp, việc sử dụng từ “thua” và “nhường” đã gợi cho
bạn đọc hình dung ra được cuộc sống êm đẹp và bình lặng của nàng. Nhưng còn
Thúy Kiều, cặp từ “ghen” hờn” mà nhà thơ sử dụng phải chăng đã tiên đoán được
số mệnh trắc trở, cơ cực của nàng qua nỗi ghen tức, lòng đố kị của thiên nhiên
trước vẻ đẹp kiều diễm, mặn mà mà nàng sở hữu?
Qua lời nhận định của Xuân Diệu về vẻ đẹp hoàn hảo của thơ ca về nội
dung cũng như hình thức, ta đã hiểu thêm được phần nào giá trị mà thơ ca đem
lại cho nhân loại. Để gìn giữ sức sống của thơ ca mãi luôn trường tồn với thời
gian cũng như tiếp thêm nguồn cảm hứng cho nhà thơ tiếp tục sáng tác, bạn đọc
nên trân trọng những tác phẩm thơ hay, đọc và ngâm thơ với một thái độ tích
cực, nghiền ngẫm và say mê. Đồng thời các nhà thơ cũng nên trau dồi vốn sống,
trải nghiệm thực tế, áp dụng những hình ảnh đẹp từ đời sống vào trong thi ca,
để kho tàng thơ văn Việt Nam ngày một phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.
“Bà chúa của nghệ thuật” sẽ
mãi là một nữ hoàng thống trị thế giới nghệ thuật nói chung và văn học nói
riêng. Lời nhận định sâu sắc của Xuân Diệu đã khẳng định giá trị bền vững của
thơ ca xuyên suốt quá trình trưởng thành của nhân loại, nuôi nấng con người trưởng
thành hơn trong dòng đời tất bật, hối hả…để từ đó, một trong số những con người
trưởng thành ấy lại trở thành những người thắp lên ngọn đuốc bất tử của thơ ca,
những người luôn cọ mài cho chiếc vương miện của “bà chúa” ngày một thêm bóng bẩy-thi
sĩ!
(Vũ Minh Phương - học sinh lớp 10 Chuyên Văn trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét